Bạo lực trên cơ sở giới và một số giải pháp nhằm giảm thiểu bạo lực giới
Theo Tuyên bố về Loại trừ bạo lực chống lại phụ nữ của Liên hiệp quốc năm 1993 (CEDAW), khái niệm bạo lực trên cơ sở giới (bạo lực giới) được hiểu là: Bạo lực trên cơ sở giới là bạo lực nhằm vào một người dựa trên cơ sở giới tính của người đó. Nó bao gồm các hành động gây ra những tổn hại về thể chất, tâm lý và tình dục, những đe dọa dẫn đến những hành động nói trên, sự ép buộc và những hình thức khác nhằm tước bỏ tự do của người đó…
Bạo lực giới có phạm vi rộng hơn so với bạo lực gia đình; Mặc dù cả nam giới và trẻ em trai cũng bị ảnh hưởng, nhưng phụ nữ và trẻ em gái thường phải chịu tác động nặng nề hơn do bạo lực giới gây ra.
I. Các hình thức của bạo lực giới
Bạo lực giới xảy ra dưới nhiều dạng (hình thức), biểu hiện như: Bạo lực trong gia đình, tảo hôn, ép hôn, mua bán người, lạm dụng tình dục trẻ em, mại dâm cưỡng bức, quấy rối tình dục, nạo phá thai để lựa chọn giới tính thai nhi, ...
Trong cuộc đời phụ nữ và trẻ em gái có thể trải qua nhiều hình thức bạo lực về giới từ trước khi sinh ra và trong giai đoạn sơ sinh, trong thời kỳ vị thành niên hay trong giai đoạn trưởng thành, về già. Các hình thức của bạo lực giới diễn ra như sau:
- Trước khi sinh: Nạo phá thai vì mục đích lựa chọn giới tính, bị đánh đập trong quá trình mang thai ảnh hưởng về tình cảm và thể chất đối với phụ nữ, ảnh hưởng đến kết quả sinh đẻ, mang thai ép buộc.
- Sơ sinh: Tục giết trẻ sơ sinh gái, sự phân biệt trong chế độ dinh dưỡng và chăm sóc y tế đối với trẻ sơ sinh gái.
- Thời thơ ấu: Tảo hôn, lạm dụng tình dục bởi các thành viên gia đình và người lạ, sự phân biệt trong chế độ dinh dưỡng và chăm sóc y tế cho trẻ em gái, ….
- Thời niên thiếu: Bạo lực trong quá trình hẹn hò và tán tỉnh, lạm dụng tình dục nơi làm việc, quấy rối tình dục, hiếp dâm, mại dâm ép buộc, buôn bán phụ nữ, mại dâm trẻ em.
- Tuổi trưởng thành: Lạm dụng tình dục bởi bạn tình là nam giới, hiếp dâm trong hôn nhân, lạm dụng về tâm lý, lạm dụng tình dục nơi làm việc, quấy rối tình dục, hiếp dâm, lạm dụng phụ nữ tàn tật, buôn bán phụ nữ…..
- Tuổi già: Lạm dụng phụ nữ góa, lạm dụng người già,…Lạm dụng tinh thần là hành vi phổ biến nhất và bao gồm các hành vi gây tổn hại cho người cao tuổi hoặc gây ảnh hưởng đến tâm lí/cảm xúc của họ như: gây sợ hãi, hủy hoại tài sản hoặc ngăn không cho họ gặp bạn bè và gia đình. Lạm dụng tài chính bao gồm việc lạm dụng bất hợp pháp tiền hoặc tài sản. Lạm dụng sức khoẻ bao gồm gây chấn thương, sự đau đớn, cũng như gây ra sự căng thẳng, sự lo lắng và trầm cảm.
1/ Bạo lực tinh thần: Bạo lực tinh thần rất phổ biến nhưng lại khó nhận dạng hơn so với bạo lực thể chất. Bạo lực tinh thần không sử dụng vũ lực thông thường như đánh đập, hành hạ, chủ yếu sử dụng lời nói chì chiết, nhục mạ, hạ thấp phẩm giá nạn nhân, kiểm soát các hoạt động của nạn nhân, lợi dụng vị thế của mình trong gia đình để gây áp lực, buộc người kia phải tuân theo mình, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
* Hậu quả của bạo lực tinh thần kéo dài âm ỉ và có thể gây tổn hại tới sức khỏe tinh thần của nạn nhân như trầm cảm và sang chấn tâm lý do phải sống trong môi trường căng thẳng, u uất, buồn bã.
2/ Bạo lực thể chất: là bất kỳ hành động cố ý nào gây thương tích hoặc chấn thương cho người khác, là hành vi phổ biến gồm:
- Đe dọa hoặc tấn công bằng vũ khí hoặc bằng vật khác.
- Nhốt trong phòng hoặc trói.
- Tát, đấm, cấu véo, kéo tóc, làm bỏng, bóp cổ, đánh.
- Ném đồ vật vào người.
- Lột quần áo.
- Giết chết người bị bạo lực.
3/ Bạo lực tình dục: là hành vi rất dễ xảy ra sau khi đã xảy ra bạo lực tinh thần và bạo lực thể chất; biểu hiện bệnh hoạn của người gây bạo lực với ý định kiểm soát và sỉ nhục cao nhất đối với phụ nữ như:
- Đánh đập để bắt quan hệ tình dục
- Sờ vào chỗ kín mà không được cho phép
- Dùng những lời nói tục tĩu, thô bạo để bắt người khác quan hệ tình dục
- Cho thuốc vào đồ uống để dễ dàng quan hệ tình dục với người khác
- Từ chối không sử dụng biện pháp tránh thai hoặc bao cao su khi quan hệ tình dục
- Cưỡng ép quan hệ tình dục trái ý muốn, tấn công/quấy rối tình dục
- Bắt mang thai, nạo phá thai- Ép xem các ấn phẩm đồi trụy,
- Chứng kiến các hành vi tình dục của người khác...
4/ Bạo lực kinh tế: là hành vi cưỡng bức với thủ đoạn muốn kiểm soát các thành viên khác trong gia đình nhằm tạo tình trạng lệ thuộc về tài chính. Hành vi ngược đãi có thể là cắt giảm quá mức chi tiêu sinh hoạt trong gia đình hoặc ngăn cản người trong gia đình có việc làm ổn định. Điều này gây thiệt hại và đau khổ
không kém gì hành vi bạo lực về thể chất
- Không cho thành viên gia đình sử dụng tài sản chung vào mục đích chính đáng;
- Kiểm soát chặt chẽ nguồn tài chính của thành viên gia đình hoặc nguồn tài chính chung của gia đình nhằm tạo cho thành viên gia đình sự phụ thuộc về tài chính;
- Buộc thành viên gia đình đóng góp tài chính vượt quá khả năng của họ;
- Đập phá tài sản riêng của mình nhằm gây áp lực về tâm lý đối với thành viên trong gia đình;
- Có hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên gia đình hoặc tài sản chung của gia đình;
- Chiếm đoạt tài sản riêng của thành viên gia đình.
- Chiếm đoạt tài sản chung của gia đình để sử dụng vào mục đích cá nhân;
- Ép buộc các thành viên gia đình lao động quá sức hoặc làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại hoặc làm những công việc khác trái với quy định của pháp luật về lao động
- Ép buộc thành viên gia đình phải đi ăn xin hoặc lang thang kiếm sống.
II. Nguyên nhân bạo hành: Một số nguyên nhân chủ yếu như sau:
- Bất bình đẳng giới là nguyên nhân gốc rễ gây ra bạo lực nam/chồng đối với nữ/người vợ trong gia đình. Trong gia đình, người phụ nữ có vị thế và quyền lực không ngang bằng với nam giới, không có quyền tham gia vào các quyết định trong gia đình, khiến họ dễ bị bạo lực do nam giới gây ra.
- Nguyên nhân mắc các tệ nạn xã hội như nghiện rượu, cờ bạc, ma túy, mại dâm được coi là những nguyên nhân cơ bản. Khi sử dụng các chất kích thích như rượu, ma túy, nam giới có nguy cơ giải quyết những khó khăn bằng hành vi bạo lực mà trước hết là bạo lực với các thành viên gia đình.
- Tệ nạn như mại dâm và ngoại tình cũng làm cho người nam giới có thể lạnh nhạt, thậm chí có hành vi đánh đập vợ, con
- Khó khăn về kinh tế cũng là một trong những nguyên nhân có thể dẫn tới bạo lực gia đình vì khó khăn về kinh tế thường tạo ra các áp lực, căng thẳng và do đó dễ dẫn tới các mâu thuẫn, tranh chấp nếu không biết cách xử lý phù hợp có thể gây nên bạo lực gia đình.
Tuy nhiên không phải cứ có khó khăn về kinh tế là nhất thiết phải có bạo lực gia đình. Thực tế cho thấy nhiều gia đình có mức sống, thu nhập thấp nhưng gia đình vẫn hòa thuận và ngược lại có những gia đình khá giả nhưng bạo lực vẫn xảy ra.
- Những cặp vợ chồng phải bươn chải vất vả để kiếm sống thường bị căng thẳng tinh thần nên dễ dẫn đến việc nam giới thường sử dụng sức mạnh của mình để gây ra bạo lực với vợ.
- Tình trạng thiếu việc làm và nghèo đói cũng làm cho nam giới cảm thấy tự ti khi không làm đúng vai trò là người trụ cột trong gia đình cũng dễ dẫn đến bạo lực gia đình.
- Tuy nhiên, bạo lực gia đình cũng xảy ra ở các trong các gia đình có điều kiện kinh tế tốt, vợ chồng có trình độ học vấn cao, công việc ổn định, am hiểu về pháp luật.
- Bạo hành giữa cha mẹ và con cái cũng thường xảy ra, vì họ cho rằng mục đích răn đe giáo dục con cái“thương cho roi cho vọt”. Có những hành vi rất thậm tệ như đánh đập, không cho ăn uống, bỏ mặc…Và hậu quả rất là nghiêm trọng, một số trẻ bỏ học, bỏ nhà, vướng vào tệ nạn xã hội.
- Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình còn hạn chế. Trình độ nhận thức và sự hiểu biết về pháp luật trong một bộ phận người dân còn thấp cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực gia đình vẫn còn tiếp tục xảy ra.
Nhiều người do thiếu hiểu biết về pháp luật nên cho rằng cha mẹ có quyền đánh đập, chửi mắng con cái, chồng có quyền đánh vợ…Nhiều phụ nữ, người già cũng không nhận thức được đầy đủ quyền của mình nên không dám đấu tranh mà cam chịu bạo lực.
- Cộng đồng và các gia đình vẫn coi bạo lực gia đình là vấn đề riêng tư trong mỗi gia đình và người ngoài không nên can thiệp. Chính vì vậy, phản ứng của cộng đồng đối với các hành vi bạo lực gia đình còn thờ ơ, chưa mạnh mẽ.
- Việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý hành vi bạo lực gia đình còn chưa kịp thời, nghiêm minh, vì thế bạo lực vẫn tiếp tục xảy ra mà không bị ngăn chặn.
III. Hậu quả của bạo lực giới
- Về sức khỏe thể chất: Sức khỏe bị tổn hại, thương tích đau đớn, có thể bị khuyết tật suốt đời, thậm chí dẫn đến tử vong.
- Về sức khỏe tinh thần: Luôn ám ảnh bị bạo lực; chán nản, buồn rầu, lo lắng, sợ hãi, mất tự tin, hoang mang, trầm cảm; cảm thấy cuộc sống nặng nề, căng thẳng và tuyệt vọng.
- Về sức khỏe sinh sản: Mang thai ngoài ý muốn, thai nhi suy dinh dưỡng, sẩy thai, đẻ non, lây nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục, nhiễm HIV.
- Hậu quả với trẻ em: Với trẻ nhỏ dưới 5 tuổi: Khóc nhiều, suy dinh dưỡng, chậm lớn, chậm phát triển trí tuệ, e ngại khi tiếp xúc với người lạ.
- Với trẻ trong độ tuổi trước vị thành niên: thiếu tập trung và không có khả năng chơi tích cực; vụng về, lóng ngóng và hay gây rối; tránh va chạm và dễ chiều theo ý người khác; mất hứng thú với các hoạt động xã hội và giảm năng lực xã hội; lẫn tránh các mối quan hệ với các bạn cùng lứa tuổi.
- Với trẻ vị thành niên: học kém, bỏ học, phạm tội, uống rượu, hút thuốc lá và nghiện ma túy; thiếu tin tưởng vào người lớn; bỏ đi khỏi nhà; có thể có các hành vi bạo lực như người lớn; chán nản và có ý nghĩ tự tử; thậm chí tự tử.
- Hậu quả đối với gia đình: Ly thân, ly hôn. Phải tốn tiền chữa trị phục hồi sức khỏe thể chất cho nạn nhân và tinh thần của nạn nhân và người chứng kiến bạo lực gia đình sẽ bị ảnh hưởng trong một thời gian dài; chất lượng cuộc sống của thành viên trong gia đình bị giảm sát.
- Giảm thời gian và năng suất lao động từ đó giảm thu nhập gia đình. Không có khả năng làm tròn bổn phận với gia đình nội, ngoại.
- Hậu quả đối với người gây bạo lực gia đình: Phá hỏng mối quan hệ vợ - chồng, cha mẹ - con cái, ông bà-cháu, cảm thấy cô đơn ngay trong gia đình. Có nhiều trường hợp phải đóng tiền nộp phạt vi phạm hành chính khi có hành vi gây ra bạo lực gia đình. Bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu gây hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng với nạn nhân.
- Hậu quả đối với xã hội: Giảm sự đóng góp của nạn nhân và người gây bạo lực gia đình đối với xã hội; tạo ra lực lượng lao động tương lai có sức khỏe thể chất và tinh thần yếu, thiếu sáng tạo; ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội; ảnh hưởng đến truyền thống tốt đẹp của con người, gia đình Việt Nam.
IV. Một số giải pháp nhằm giảm thiểu tình trạng bạo lực
- Tăng cường công tác tuyên truyền về truyền thống tốt đẹp của con người, gia đình Việt Nam và tác hại của bạo lực giới, bạo lực gia đình.
- Phát huy vai trò của tổ chức Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong việc tuyên truyền, vận động thành viên của mình thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về bình đẳng giới và phòng chống bạo lực gia đình.
- Tùy theo đặc điểm, truyền thống văn hóa của từng địa phương, xây dựng các quy chế, quy ước để điều chỉnh các mối quan hệ trong cộng đồng dân cư, trong từng gia đình, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và phát triển bền vững.
- Xây dựng mô hình, Câu lạc bộ phòng, chống bạo lực gia đình. Cung cấp kiến thức về hôn nhân và gia đình; kỹ năng ứng xử, xây dựng gia đình văn hoá và các nội dung khác có liên quan đến phòng, chống bạo lực gia đình.
- Ngăn chặn các tệ nạn xã hội là giải pháp phòng, chống bạo lực có hiệu quả nhất. Vì vậy đấu tranh phòng, chống tệ nạn xã hội không chỉ tạo nên sự ổn định xã hội mà còn góp phần vào việc phòng, chống bạo lực một cách có hiệu quả.
- Hành vi bạo lực phải được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật. Nạn nhân bạo lực phải được bảo vệ, giúp đỡ kịp thời và áp dụng biện pháp ngăn chặn, bảo vệ, cấm tiếp xúc, bố trí nơi tạm lánh; cung cấp dịch vụ y tế, tư vấn tâm lý, pháp luật.
- Tuyên truyền, giáo dục không nên nạo phá thai vì mục đích lựa chọn giới tính, đánh đập trong quá trình mang thai ảnh hưởng về tình cảm và thể chất đối với phụ nữ, ảnh hưởng đến kết quả sinh đẻ, mang thai ép buộc.
- Ngăn chặn nạn tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong đồng bào các dân tộc thiểu số.
- Lên án hành vi phân biệt trong chế độ dinh dưỡng và chăm sóc y tế cho trẻ em gái, ….
- Phòng chống hành vi lạm dụng tình dục nơi làm việc, quấy rối tình dục; kịp thời tố cáo với các cơ quan có chức năng xử lý nghiệm theo quy định của pháp luật.
- Phòng chống hành vi hiếp dâm, mại dâm, buôn bán phụ nữ, mại dâm trẻ em, lạm dụng phụ nữ tàn tật, lạm dụng người già,…
- Vợ chồng phải biết cách ứng xử tế nhị, tôn trọng giúp đỡ nhau; trường hợp vợ chồng có xung đột, mâu thuẩn nên thẳng thắn trao đổi để tìm ra nguyên nhân gốc rễ của vấn đề. tạo không khí hoà thuận, cùng có trách nhiệm với nhau trong cuộc sống.- Trang bị kiến thức, kỹ năng phòng tránh bạo lực về thể chất, tinh thần, tình dục đối với phụ nữ và trẻ em gái.
- Tạo việc làm ổn định cuộc sống, giảm thiểu nạn thất nghiệp, không có thu nhập, áp lực căng thẳng trong công việc, trong cuộc sống,….dẫn đến xung đột, hành vi bạo lực.
Ngăn chặn và đẩy lùi bạo lực trên cơ sở giới
Bạo lực trên cơ sở giới, đặc biệt là bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em ...
Nghiên cứu toàn cầu của Tổ chức Y tế thế giới năm 2013 cho thấy, có 35% phụ nữ trên toàn thế giới đã từng bị bạo lực về thể chất hoặc tình dục. Riêng tại Việt Nam, những vụ xâm hại tình dục trẻ em và bạo lực đối với phụ nữ không phải là cá biệt. Trong 5 năm qua (2011-2015), cả nước phát hiện trên 8.200 vụ xâm hại trẻ em với gần 10.000 nạn nhân, tăng 258 nạn nhân so với 5 năm trước đó. Số vụ bị xâm hại tình dục chiếm tới 5.300 vụ (khoảng 65%) và ngày càng có xu hướng gia tăng xâm hại tình dục nam. Năm 2011, lực lượng chức năng đã bắt hơn 1.000 đối tượng vi phạm về xâm hại tình dục, đến năm 2015 con số này đã tăng lên hơn 1.400 đối tượng.
Mặc dù chưa có con số thống kê cụ thể mang tầm quốc gia về bình đẳng giới hay các vấn đề về bạo lực trên cơ sở giới, tuy nhiên, theo số liệu gần đây nhất của Tổ chức Action Aid tại Việt Nam cho thấy, có tới 87% phụ nữ từ 2 thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội từng bị quấy rối tình dục nơi công cộng; 67% người chứng kiến đã không có hành động gì. Còn theo nghiên cứu của Tổ chức Plan Quốc tế tại Việt Nam, 31% em gái vị thành niên và thanh niên đã từng bị quấy rối tình dục ở nơi công cộng và trên các phương tiện giao thông công cộng; 11% học sinh tại 30 trường phổ thông của Hà Nội từng bị xâm hại, quấy rối tình dục. Riêng tình trạng xâm hại, bạo lực với trẻ em, đặc biệt là trẻ em gái, trung bình có khoảng 1.000 vụ xâm hại tình dục mỗi năm. Đây không chỉ là nạn nhân của bạo lực gia đình mà còn là đối tượng dễ bị buôn bán, lạm dụng tình dục và bạo lực ngoài môi trường gia đình.
Có thể nói, nhiều năm qua, Việt Nam được đánh giá là quốc gia có khung pháp lý nhằm bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em tương đối hoàn chỉnh. Điều này được thể hiện trong các quy định của chính sách và pháp luật, bảo đảm bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ được ban hành và thực thi như: Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030; Chương trình hành động quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình giai đoạn 2010-2020; Chiến lược quốc gia bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020… Đặc biệt, Quyết định 1464/QĐ-TTg ngày 22/7/2016 của Thủ tướng Chính phủ về Đề án “Phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới giai đoạn 2016 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030” với mục tiêu thực hiện có hiệu quả công tác phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới; người có nguy cơ bị bạo lực và nạn nhân của bạo lực trên cơ sở giới được phát hiện, can thiệp và hỗ trợ kịp thời nhằm ngăn ngừa bạo lực xảy ra và có cơ hội cải thiện nâng cao chất lượng môi trường sống và làm việc… có thể coi là bước đột phá trong việc nâng cao nhận thức, năng lực và trách nhiệm của chính quyền các cấp, các ngành, các tổ chức liên quan và cộng đồng trong việc phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới.
Bên cạnh đó, ngoài quy định mang tính hiến định về nguyên tắc “công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt” trong Hiến pháp 1992, đến nay đã được bổ sung thêm “cơ hội bình đẳng giới” trong Hiến pháp năm 2013 (khoản 1 Điều 26). Điều này có ý nghĩa thực tiễn quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới của Nhà nước ta, được thể chế hóa thành luật và các văn bản dưới luật. Tuy nhiên, công tác thực thi và giám sát thực thi kém hiệu quả đang là rào cản để Việt Nam tiến xa hơn nữa trong nỗ lực giải quyết các vấn đề của phụ nữ và trẻ em.
Năm 2016 là năm đầu tiên Việt Nam triển khai Tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng chống bạo lực trên cơ sở giới. Với chủ đề “Chung tay chấm dứt bạo lực đối với phụ nữu và trẻ em gái”, ngày 30/8/2016, Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã ban hành Kế hoạch triển khai “Tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới”. Với mục tiêu huy động sự tham gia, phối hợp của các ngành, các cấp, các tổ chức trong và ngoài nước, đặc biệt là nam giới và trẻ em trai cùng hành động nhằm xóa bỏ bất bình đẳng giới và chấm dứt bạo lực; thúc đẩy thực hiện luật pháp, chính sách, vận động xã hội về bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới; khuyến khích kêu gọi mọi người cùng lên tiếng và hành động để chấm dứt bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái nhằm hướng đến huy động sự tham gia, vào cuộc một cách đồng bộ, mạnh mẽ của các cơ quan, tổ chức và mọi người dân trong cộng đồng, đặc biệt là nam giới trong công tác phòng, chống bạo lưc đối với phụ nữ và trẻ em gái.
Để góp phần ngăn chặn và đẩy lùi bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái, các cơ quan chức năng, tổ chức xã hội đã triển khai nhiều giải pháp như hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách, đẩy mạnh công tác truyền thông nâng cao nhận thức của mọi tầng lớp nhân dân về hậu quả của bạo lực và xây dựng, triển khai các mô hình, dịch vụ phòng ngừa và ứng phó với bạo lực. Đặc biệt, ngày 13/11/2016 Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã phối hợp với Liên hợp quốc tại Việt Nam tổ chức Lễ phát động Tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới. Sự kiện này mở đầu cho Chiến dịch truyền thông quốc gia về bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới lần đầu tiên được triển khai tại Việt Nam. Kết quả sau một tháng, với sự vào cuộc mạnh mẽ, sự hưởng ứng tích cực của các cơ quan, đơn vị, các tổ chức trong nước và quốc tế, đã có hàng trăm hoạt động được triển khai rộng rãi từ trung ương tới địa phương, thu hút sự tham gia trực tiếp của hàng trăm ngàn người dân. Thông qua Chiến dịch truyền thông này, các thông điệp hướng tới kêu gọi thực hiện bình đẳng giới và chấm dứt bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái đã được lan tỏa ngày một xa hơn, rộng hơn.
SƯU TẦM