LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ PHƯỜNG CHÂU PHÚ A (1976 - 2010)
LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ PHƯỜNG CHÂU PHÚ A (1976 - 2010)
----
LỜI NÓI ĐẦU
Phường Châu Phú A là trung tâm đô thị, xưa kia là một phần đất của xã Châu Phú, ngày nay là một đơn vị hành chánh thuộc thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang. Qua các giai đoạn lịch sử, nhân dân các nơi về đây chung sức khai mở đất đai, xây dựng cuộc sống và thôn xóm ngày càng trở nên đông đức, trù phú.
Là vùng đất vốn có truyền thống yêu nước, đấu tranh chống giặc ngoại xâm trong quá trình mở đất và giữ đất, suốt hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, vùng đất Châu Phú A đã ghi dấu những chiến công, sự đấu tranh bền bĩ, dũng cảm của quân dân địa phương.
Tháng 2-1976, xã Châu Phú A được thành lập, rồi trở thành phường Châu Phú A (4-1979). Trên địa bàn mới, Đảng bộ và nhân dân phường đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, đổ biết bao công sức góp phần bảo vệ biên giới Tây Nam Tổ quốc, xây dựng và phát triển địa phương trên các lĩnh vực, xứng đáng là trung tâm kinh tế - văn hóa của thị xã Châu Đốc.
Thực hiện chủ trương của Thị xã ủy Châu Đốc, Đảng ủy phường Châu Phú A tổ chức sưu tầm, biên soạn “Lịch sử Đảng bộ phường Châu Phú A (1976 - 2010)”, nhằm ghi lại thành tích vẻ vang của quân dân địa phương; tôn vinh những đồng chí, đồng bào đã hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, trong xây dựng, bảo vệ quê hương và phục vụ công tác giáo dục truyền thống cách mạng địa phương.
Nội dung cuốn sách được biên soạn dựa trên các tài liệu nghiên cứu về vùng đất An Giang, Châu Đốc, các Nghị quyết, báo cáo tổng kết, thống kê của phường, của huyện Châu Phú, của thị xã Châu Đốc, của tỉnh An Giang kết hợp với nguồn tài liệu khai thác từ các nhân chứng lịch sử.
Ngoài lời nói đầu và phần kết luận, nội dung cuốn sách gồm có 3 chương:
- Chương I: Khái quát vùng đất, con người Châu Phú A.
- Chướng II: Truyền thống yêu nước và đấu tranh cách mạng của nhân dân phường Châu Phú A.
- Chương III: Phường Châu Phú A xây dựng và phát triển (1976 - 2010).
Đây là một tài liệu quý, giúp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là thanh thiếu niên trong phường hiểu rõ hơn về truyền thống đấu tranh cách mạng của quê hương trong các thời kỳ lịch sử. Từ đó nâng cao lòng tự hào dân tộc, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tích cực tham gia thực hiện thắng lợi những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Quá trình biên soạn, do có nhiều khó khăn về nguồn tư liệu thành văn, nhất là thời kỳ kháng chiến; các nhân chứng lịch sử hiện nay không còn nhiều hoặc tuổi đã cao nên ảnh hưởng đến việc cung cấp tài liệu và xác định các sự kiện. Mặc dù cố gắng nhưng cuốn lịch sử không tránh khỏi thiếu sót. Vì vậy, rất mong các đồng chí và bạn đọc xa gần đóng góp ý kiến để lần xuất bản sau được hoàn chỉnh hơn.
Nhân dịp cuốn sách được ra mắt, Đảng ủy phường Châu Phú A chân thành cảm ơn các đồng chí lão thành cách mạng, các nhân chứng lịch sử qua nhiều thời kỳ, các thế hệ cán bộ, đảng viên và nhân dân trong phường, Ban Tuyên giáo Thị xã ủy Châu Đốc và các ngành hữu quan đã cung cấp tư liệu và có những đóng góp quan trọng trong quá trình sưu tầm, biên soạn cuốn sách này.
ĐẢNG ỦY PHƯỜNG CHÂU PHÚ A
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VÙNG ĐẤT VÀ CON NGƯỜI PHƯỜNG CHÂU PHÚ A
Cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, dưới triều vua Gia Long (1808), địa bàn phường Châu Phú A xưa kia là vùng đất thuộc huyện Vĩnh Định, trấn Vĩnh Thanh. Năm 1832, là một phần đất thuộc thôn Châu Phú, tổng Châu Phú, huyện Tây Xuyên, phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang.
Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), trên địa bàn thôn Châu Phú, trường tỉnh học được thành lập.
Vùng Châu Đốc là khu vực quân sự, triều đình đặt làm một đạo biên phòng với vai trò đồn trú án ngữ sông Hậu. Nhằm bố phòng Châu Đốc, ngăn chặn quân Xiêm - Chân Lạp quấy phá, năm 1816, vua Gia Long sai Trấn thủ Vĩnh Thanh Lưu Phước Tường xây thành Châu Đốc, tập trung quân và dân 3.000 người đắp đồn theo hình lục giác, thành cao hình đá ong, vội cát, chung quanh có đào chiến hào, mặt tiền thành hướng về bờ sông Hậu (vị trí thành đến đời Pháp thuộc là thành lính tập, thành Sơn Đá, P.C), đem quân ở 4 trấn (toàn Nam kỳ) phân bổ đến lưu trú. Bấy giờ dân số quanh Châu Đốc còn quá ít.
Đến đầu thế kỷ XIX, dân cư ở Châu Đốc vẫn còn thưa thớt. Nhằm biến Châu Đốc thành đồn biên phòng và tự sản xuất lương thực nên triều Nguyễn ban hành nhiều chính sách khuyến khích khẩn hoang. Từ năm 1817, khi Diệp Hội được cử làm Cơi phủ Châu Đốc, về sau đất rộng mở mang hơn trước. Công việc buôn bán ở khu vực Châu Đốc hình thành. Từ 1818, Nguyễn Văn Thoại cho tu bổ lại đồn Châu Đốc. Phía sau đồn còn nhiều đất hoang, Ông cho chiêu mộ người Hoa, người Khmer, người Chăm đến khai phá, lập chợ Châu Đốc.
Dân cư trên vùng đất Châu Đốc (Châu Phú A) gồm nhiều thành phần khác nhau. Đó là những người đến khai hoang theo chính sách của triều Nguyễn, là những quân binh theo Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh, Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại đồn trú giữ gìn an ninh vùng “Châu Đốc tân cương”.
Một trong những nhóm di dân khai phá vùng Châu Đốc là gia tộc Nguyễn Khắc, thuộc dòng con cháu Nguyễn Văn Thoại, hiện đã đến đời thứ 7 là ông Nguyễn Khắc Mi[1].
Năm 1901, địa bàn Châu Phú A thuộc tổng Châu Phú, tỉnh Châu Đốc; thuộc tổng Châu Phú, quận Châu Thành, tỉnh Châu Đốc (1917); thuộc quận Châu Phú, tỉnh Châu Đốc (1930); thuộc tỉnh An Giang (1957); rồi tỉnh Châu Đốc (1964, sau khi chia tách tỉnh) cho đến ngày giải phóng 30/4/1975.
Theo sự phân chia địa giới của chính quyền cách mạng, vùng đất Châu Phú A thuộc huyện Châu Phú A, tỉnh Long Châu Hậu (1948); rồi huyện Châu Phú, tỉnh Long Châu Hà (1950). Năm 1957 thuộc tỉnh An Giang.
Đầu năm 1965, ta lập thị xã Châu Đốc, địa bàn Châu Phú A thuộc thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang; rồi thuộc tỉnh Châu Hà (1971); tỉnh Long Châu Hà (1974).
Tháng 2-1976, xã Châu Phú tách ra thành hai xã Châu Phú A và Châu Phú B. Ngày 25-4-1979, theo Quyết định 181-CP của Hội đồng Chính phủ, xã Châu Phú A chuyển thành phường Châu Phú A cho đến ngày nay.
Phường Châu Phú A hiện nay có diện tích tự nhiên 4,8 km2. Phía bắc giáp xã Vĩnh Nguơn; phía Nam giáp phường Châu Phú B; phía Đông giáp sông Hậu; phía Tây giáp phường Núi Sam, voi cát. Phường có 11 khóm gồm: Khóm 1, 2 ,3 ,4, 5, 6, 7, 8, khóm Châu Thạnh, Vĩnh Phú, Vĩnh Chánh.
Cư dân người Kinh cùng với người Hoa, người Chăm đoàn kết, thương yêu xây dựng cuộc sống trong buổi đầu đầy khó khăn, khắc nghiệt. Từ thời vua Tự Đức trở về sau, công cuộc khẩn hoang được đẩy mạnh, dân số tăng lên. Năm 1901, dân số xã Châu Phú là 4.847 người. Năm 1970 là 40.209 người. Năm 2010, dân số phường Châu Phú A là 31.101 người.
Trong tổng số dân, người Kinh chiếm đa số, người Hoa chiếm 20%, khoảng 5% là dân tộc Khmer, Chăm. Thành phần tôn giáo khá đa dạng, phần lớn theo đạo Phật, khoảng 25,8% theo đạo Phật giáo Hòa Hảo, Tin Lành, Cao Đài và Công giáo. Toàn phường có 14 đình, chùa, thánh thất, am miếu.
Nền kinh tế chính của phường Châu Phú A là dịch vụ - thương mại chiếm 52%, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp 3,6%, nông nghiệp 14,4%. Đặc biệt, phường có một số ngành nghề truyền thống như làm mắm cá, làm khô bò…
Về văn hóa, đình Châu Phú là di tích lịch sử gắn liền với quá trình mở đất và giữ đất của dân tộc ta hàng trăm năm, được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia năm 1988 (Quyết định số 1288/VH.QĐ của Bộ Văn hóa ngày 16-11-1988).
Đình Châu Phú được xây dựng khoảng thời gian 1820 - 1828. Theo sách “Đại Nam nhất thống chí”, phần An Giang tỉnh, có ghi: Đình Châu Phú do Thoại Ngọc Hầu dựng lên thờ danh thần khai quốc Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh. Khởi đầu, địa điểm đình ở khuôn viên đất tộc họ Lê Công (Nhà lớn) (đường Lê Lợi, phường Châu Phú B). Đình được làm từ gỗ tạp, lợp lá đơn sơ, sau thay bằng cột căm xe, vách ván, nền lót gạch tàu. Năm 1926, thực dân Pháp chọn nơi này lập bệnh viện nên bà Huỳnh Thị Phú (vợ thứ ông Lê Công Thoàn) và Hương chủ Lan đứng ra vận động nhân dân đóng góp tiền di chuyển đình đến địa điểm đầu chợ (góc đường Thoại Ngọc Hầu - Lê Lợi hiện nay). Công trình xây dựng đình quá lớn, nên số tiền của nhân dân và công quỹ làng Châu Phú không đủ, chính quyền thực dân Pháp tỉnh Châu Đốc tổ chức mở số Tôm bô la. Chính nhờ số tiền này, đình Châu Phú xây cất hoàn chỉnh và khang trang. Đình có diện tích ngang 16 mét, dài 40 mét, rất kiên cố, nguy nga nhưng cổ kính, mang đậm nét văn hóa dân tộc. Tường gạch hồ vôi ô dước, mái lợp ngói đại tiểu, nền lót gạch hoa, cột căm xe, cà chất. Bên trong có 4 hàng cột 40 cây to 2 vòng tay, kèo, cột, hoành phi, liễn đối, vàng son chạm trổ rất là đặc sắc như hình bát tiên, tứ linh, chim muông, bông hoa, nổi bật là chạm khắc rồng đậm nét thời Nguyễn.
Đến năm 1960, đình được tu bổ thêm cổng rào xung quanh, dưới xây gạch, trên là song sắt càng làm cho đình thêm trang nghiêm và thoáng mát. Năm 1978, trong chiến tranh chống bọn Pôn Pốt ở biên giới Tây Nam, đình bị 1 trái pháo của quân Pôn Pốt làm hư nóc mái sau và được nhân dân tu sửa lại như cũ.
CHƯƠNG II
TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC
VÀ ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN CHÂU PHÚ A
1- Trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945
Ngày 22-6-1867, tàu chiến Pháp tấn công chiếm thành Châu Đốc. Sau khi chiếm tỉnh lỵ Châu Đốc, Pháp tổ chức bộ máy cai trị từ tỉnh đến làng, xã. Các phong trào chống Pháp nơi đây chuyển hướng mang màu sắc thần bí như hốt thuốc trị bệnh, hoặc “Hội kín” theo kiểu “Thiên địa hội” Trung Quốc. Hàn lâm miếu ra đời thực chất là bàn về thời cuộc, chính trị.
Nhằm phục vụ chính sách khai thác thuộc địa, chính quyền thực dân Pháp mở mang xây dựng cơ sở hạ tầng. Năm 1876, cầu tàu, nhà lồng chợ được xây dựng, mở nhà dây thép do người Pháp chỉ huy, người Việt vào tập sự. Chợ trở thành trạm giao lưu hàng hóa, hành khách của các công ty tàu thủy tư bản Pháp trên sông Hậu; là tụ điểm thu mua lúa cho giới mại bản đưa về Chợ Lớn. Cơ sở xay xát lúa gạo được hình thành ở kênh miếu Ông Hàn (kênh Ông Cò).
Do là nơi tập trung bộ máy cai trị của Pháp nên người dân nơi đây trực tiếp chịu mọi chính sách, hành vi bóc lột, khủng bố, đầu độc của Pháp và tay sai. Pháp khuyến khích sản xuất rượu, mua bán thuốc phiện, phát triển các hủ tục mê tín dị đoan để đầu độc tinh thần và thể xác người dân. Nhà máy rượu hiệu Vĩnh Phong Long do tư nhân người Hoa lập (đường Trần Hưng Đạo) cung cấp rượu cho các tỉnh phía Hậu Giang.
Để khủng bố, trừng trị những người chống lại chính quyền cai trị mà Pháp cho là quân phiến loạn, gây hại cho an ninh của chúng, cũng như đe dọa người dân địa phương, Pháp cho lập hệ thống nhà tù và mở rộng từ sau năm 1930 để giam giữ tù chính trị. Dưới ách cai trị của thực dân Pháp, lòng dân luôn âm ỉ sự phản kháng và chịu sự tác động của các phong trào yêu nước chống Pháp như tham gia ủng hộ nghĩa quân Quản cơ Trần Văn Thành đánh thành Châu Đốc sau khi thực dân Pháp chiếm, nhưng thất bại, Trần Văn Thành rút quân về Láng Linh (Châu Phú) xây dựng căn cứ kháng Pháp.
Năm 1932, các đảng viên bị án biệt xứ đến Châu Đốc hoạt động như đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa đã xây dựng được một số cơ sở cách mạng như: Võ Văn Huê, bán thuốc cho nhà thuốc Bắc “Nhành Mai”, Phùng Văn Hóa (tiệm bán guốc)…
Cuối năm 1933, một số đảng viên ra tù như Nguyễn Trí, Châu Văn Giác, Nguyễn Văn Kính mãn hạn tù ở lại Châu Đốc. Các đồng chí vừa làm thợ mộc, thợ hớt tóc để mưu sinh, vừa tìm cách liên lạc với tổ chức. Tiệm hớt tóc của đồng chí Nguyễn Văn Kính ở chợ là điểm chuyển giao báo “Bạn nghèo” của Ban Chấp ủy lâm thời tỉnh[2].
Trong năm 1934, tổ chức công khai của tỉnh lỵ Châu Đốc hình thành lấy tiệm nón Dân Hòa ở số 23 đường Maréchal Foch (nay là nhà số 13 đường Nguyễn Hữu Cảnh) làm trụ sở.
Giữa năm 1936, chi bộ tỉnh lỵ Châu Đốc (làng Châu Phú) được thành lập gồm 7 đồng chí (có 4 đảng viên người tại chỗ là Phùng Văn Hóa, Nguyễn Văn Nữ, Hồ Thị Ngọc Trầm, Hai Châu, Võ Văn Huê), do đồng chí Phùng Văn Hóa làm Bí thư, trụ sở đặt tại tiệm nón Dân Hòa. Hưởng ứng phong trào Đông Dương Đại hội đấu tranh đòi dân sinh dân chủ, chi bộ phân công cán bộ, đảng viên đi tuyên truyền, vận động phát triển cơ sở và hướng dẫn quần chúng đấu tranh đòi giảm thuế, giảm tô, chống phạt vạ vô lý…
Đồng chí Vũ Hồng Đức lập tiệm sửa xe đạp làm trạm liên lạc, đồng chí Trần Khôn mở điểm may quần áo ở góc chợ để thu thập tin tức.
Chi bộ còn tổ chức giới buôn bán, các hội ái hữu, tương tế; lập quán cơm bình dân ở đầu chợ và cuối chợ do Năm Bình Dân và Chín Minh phụ trách, nhằm phục vụ tầng lớp nhân dân lao động nghèo; mở tiệm giặt ủi (ngay tiệm nón); lập trại mộc ở xóm hàng xáo vừa có tài chánh hoạt động, vừa tránh tai mắt địch, cũng là vừa làm điểm họp của chi bộ và các đồng chí hoạt động.
Ngày 1-5-1938, chi bộ tập hợp quần chúng mít-tinh một cách hợp pháp tại quán cà phê của ông Chín Tỉnh (đường Chi Lăng). Các đồng chí đọc báo cho mọi người nghe, sau đó nói thêm về tình hình thời sự, tuyên truyền đường lối của Đảng… Tất cả diễn ra trong vòng 30 phút rồi giải tán. Sự việc diễn ra quá nhanh chóng, bất ngờ khiến chủ quán ngẩn ngơ, còn địch không trở tay kịp.
Ta còn phát động những người buôn gánh bán bưng tại chợ đấu tranh đòi giảm thuế chợ. Một mặt cử Năm Bình Dân và Chín Minh trực tiếp đưa yêu sách đến tên Tây góp chợ; vận động chị em buôn bán ở chợ kéo đến dinh chủ tỉnh đòi giảm thuế hoa chi, giảm tiền góp chợ… Đồng thời, băng, cờ đỏ búa liềm được treo, truyền đơn được rải khắp nội ô.
Ngày 15-5-1938, hơn 400 quần chúng tỉnh lỵ kéo đến dinh chủ tỉnh yêu cầu giảm thuế điền thổ và thuế thân. Cuộc đấu tranh giành được thắng lợi.
Ngày 1-5-1939, chi bộ hướng dẫn hơn 500 quần chúng mít-tinh kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động. Sau đó, đoàn người biểu tình tuần hành khắp các đường phố lớn của tỉnh lỵ, từ nhà máy rượu đi ngang qua thành lính tập đến cầu tàu. Vừa đi, mọi người vừa hô vang các khẩu hiệu: “Tinh thần Quốc tế Lao động 1-5 muôn năm”. “Tự do tổ chức hội họp”… Thấy lực lượng quần chúng mỗi lúc một đông, địch cho lính đến đàn áp, bắt một số người chúng nghi là lãnh đạo. Quần chúng dùng lý lẽ đấu tranh đòi thả những người bị bắt. Không có chứng cứ, địch buộc phải thả số bị bắt ra.
Ngày 14-7-1939, chi bộ phát động quần chúng kéo biểu tình, một mặt rải truyền đơn. Đến chợ, số người tham gia càng đông. Địch huy động lực lượng đàn áp, truy bắt 4 người trương băng ron đưa về giam ở bót cảnh sát để tra hỏi. Các anh chỉ trả lời: đọc báo rồi hưởng ứng cách mạng Pháp. Hai ngày sau, không tìm được chứng cứ, địch đành thả các anh ra.
Cuối năm 1939, sau khi Mặt trận Bình dân ở Pháp đổ, phái cực tả lên cầm quyền, thực thi hàng loạt chính sách phản động đánh vào Đảng Cộng sản, các tổ chức quần chúng công khai, hòng dập tắt phong trào cách mạng. Ở tỉnh lỵ Châu Đốc, địch bắt nhiều cán bộ, đảng viên, tổ chức Đảng tan rã, các tổ chức công khai bị giải tán. Quán cơm bình dân, tiệm nón, tiệm giặt ủi bị đóng cửa.
Năm 1940, chuẩn bị khởi nghĩa Nam kỳ theo chủ trương của Xứ ủy, quần chúng nội ô được lệnh tổ chức từng nhóm may băng, cờ, viết khẩu hiệu, truyền đơn, treo, dán trong nội ô.
Đêm 2 rạng 3-12-1940, hưởng ứng khởi nghĩa trong toàn tỉnh, trong nội ô cờ đỏ búa liềm được treo trên các cột dây thép; truyền đơn in bằng xu xoa rải, dán khắp nơi. Tuy nhiên, do địch đã đề phòng nên cuộc khởi nghĩa không thành công.
Suốt những năm 1941 - 1944, tỉnh lỵ còn lại các đồng chí Trần Khôn, Vũ Hồng Đức, Võ Văn Huê, Trần Văn Vân, Minh, Lê Văn Cơ. Đồng chí Trần Khôn và Lê Văn Cơ mở quán hủ tiếu, cà phê ở đầu chợ (ngang rạp hát Lạc Thanh trước đây) để hoạt động đơn tuyến, nắm tình hình và tìm bắt liên lạc với cấp trên.
Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp và tổ chức bộ máy chính quyền. Một tiểu đoàn lính tập người Campuchia cùng 1 trung đội lính Nhật (bảo an binh) đóng ở thành Sơn Đá[3] do sĩ quan Nhật chỉ huy.
Tháng 4-1945, các đồng chí bị tù vượt các trại tập trung về Châu Đốc cùng các đồng chí tại chỗ hình thành Ban cán sự, sau đó thành lập Tỉnh ủy lâm thời do đồng chí Nguyễn Văn Thôi làm Bí thư.
Ngày 15-8-1945, Nhật đầu hàng đồng minh. Tỉnh ủy họp bàn và đề ra kế hoạch giành chính quyền tỉnh.
Chiều ngày 25-8-1945, đồng chí Nguyễn Văn Nữ, Tỉnh ủy viên, đến thành Sơn Đá thuyết phục quân Nhật án binh bất động. Bọn Nhật cam kết là không can thiệp. Đêm 25-8-1945, lực lượng ta đã chiếm các công sở quan trọng, đồng thời rải, dán truyền đơn khắp đường phố. Rạng sáng ngày 26-8-1945, lợi dụng lễ tuyên thệ của Thanh niên Tiền phong, ta tổ chức giành chính quyền nhanh gọn. Hàng loạt cờ vàng sao đỏ được thay bằng cờ đỏ sao vàng. Đại diện Đảng Cộng sản tuyên bố chính quyền thuộc về tay nhân dân. Đồng bào nhiệt liệt hoan nghênh. Kết thúc mít-tinh, đồng bào kéo biểu tình tuần hành khắp đường phố và hô vang các khẩu hiệu: “Việt Nam độc lập muôn năm”, “Chính quyền về tay nhân dân”… Sau đó, mọi người tập trung tại rạp hát Tân Việt (góc đường Bảo Hộ Thoại và Phan Văn Vàng) để nghe đồng chí Ung Văn Khiêm, đại diện Xứ ủy, đến nói chuyện. Đến trưa, đồng bào giải tán.
Cũng khuya đêm 25-8-1945, lực lượng tại chỗ kết hợp với lực lượng Tân Châu, Hồng Ngự phát động quần chúng vây chặt dinh chủ tỉnh, đồn cảnh sát, thành Sơn Đá (thành P.C), kho bạc, kho súng, bót lính kín, nhà dây thép, nhà đèn... và bắt một số tên ác ôn (Quản Giàu, Đội Hinh, Đội Chèo...). Đồng thời, trương băng cờ, dán truyền đơn, khẩu hiệu khắp đường phố. Đúng 3 giờ sáng, lực lượng cách mạng đã đồng loạt chiếm các công sở quan trọng, thu được khoảng 100 súng, huy động Thanh niên Tiền phong, lực lượng quần chúng từ các ngã đường rầm rập kéo đến điểm làm lễ.
2- Kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954)
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, bộ máy chính quyền và các đoàn thể được xây dựng ở xã Châu Phú.
Ngày 26-8-1945, tại thành Sơn Đá, đại đội cộng hòa vệ binh của tỉnh được thành lập, khoảng 200 người chia thành 5 trung đội do đồng chí Hùng Cẩm Hòa làm Tổng chỉ huy.
Tháng 9-1945, quân Nhật đi tàu lớn chở quân từ Campuchia xuống đổ bộ đánh chiếm thành Sơn Đá. Lực lượng ta đánh trả quyết liệt, bắn chết 7 tên Nhật, có 1 quan hai rồi lui dần về kinh Lò Heo. Không để cho địch lấn chiếm, ta liên tục bao vây, bắn phá, cắt đứt chi viện từ Campuchia xuống, đồng thời vận động nhân dân không nhóm chợ mua bán gây khó khăn cho địch. Bị vây hãm, không được tiếp tế, chi viện, quân Nhật buộc phải rút về Campuchia.
Ngày 20-1-1946, Pháp đánh chiếm tỉnh lỵ Châu Đốc. Ta thành lập mặt trận ở nhiều nơi trong nội ô để ngăn giặc, nhưng không đương nổi sức tấn công ồ ạt của quân Pháp, Trương Bỉnh Khiêm chỉ huy lực lượng rút về núi Sam. Tỉnh lỵ bị Pháp chiếm đóng.
Lợi dụng Hiệp ước sơ bộ 6-3-1946, Tỉnh ủy Châu Đốc chủ trương củng cố, gây dựng lại tổ chức, cơ sở quần chúng. Nơi nào có cơ sở quần chúng tốt, đủ điều kiện thì lập Ủy ban kháng chiến - hành chánh làng và tiến tới thành lập Mặt trận Việt Minh.
Tháng 8-1946, Ủy ban kháng chiến - hành chánh xã Châu Phú (tỉnh lỵ Châu Đốc) được thành lập, đồng chí Trương Văn Tý (Nguyễn Thành Sơn) làm Chủ tịch, Lê Kim Tâm (Lê Anh Dũng) làm Ủy viên tài chánh - cứu thương, Lê Công Tập (Khải Hoàn) làm Thư ký, Trương Quang Hường (Tư Triệu) làm Ủy viên xã hội, Phan Kim Xương (Tư Nữa) làm Ủy viên Quân sự... Ngoài ra, làng Châu Phú còn lập ủy ban ủng hộ kháng chiến hoạt động bí mật bên cạnh Mặt trận Việt Minh.
Các đồng chí tiến hành vận động số thân nhân, quần chúng tốt, chị em mua gánh bán bưng tham gia phong trào cách mạng và gây dựng cơ sở trong nội ô. Chị em tích cực tham gia học tập cứu thương, rải truyền đơn, ủng hộ tiền bạc, vải… Trong giới trí thức được ta vận động có bác sĩ Nguyễn Văn Nu, dược sĩ Ngô Văn Khâm rất nhiệt tình đóng góp nhiều thuốc men, bông băng, dụng cụ phẫu thuật...
Đẩy mạnh công tác trừ gian, diệt ác, xã Châu Phú có bộ phận trừ gian ở huyện Châu Phú đưa lên hoạt động gồm các đồng chí Huỳnh Anh, Nguyên, Lưu... Ngoài ra, trên địa bàn có phân đội Vệ quốc đoàn của khu 9 về hoạt động xây dựng cơ sở quần chúng và phát động vũ trang đánh địch. Đến cuối tháng 8-1946, làng Châu Phú có lực lượng du kích, dân quân tự vệ phối hợp với bộ đội phục kích chống càn, trừ gian diệt ác.
Năm 1947, Pháp tăng cường bình định kềm kẹp, đẩy mạnh bắt lính, mua chuộc số cầm đầu quân đội giáo phái, sử dụng quân đội Hòa Hảo Dân xã đóng đồn quanh tỉnh lỵ và các truyến đường Châu Đốc đi Long Xuyên, Nhà Bàn… để ngăn chặn Việt Minh ra vào tỉnh lỵ. Một số đơn vị Dân xã đóng rải rác trong nội ô và chiếm ngân khố (kho bạc) làm tổng hành dinh.
Địch còn lập ra tổ chức Hoa kiều liên hiệp hội, hình thức bảo vệ quyền lợi cho người Hoa, thực chất hoạt động chính trị phục vụ cho Pháp trong việc do thám cơ sở ta ở nội thành.
Giữa năm 1947, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy đẩy mạnh công tác tuyên truyền trừ gian diệt tề; rải truyền đơn gầy dựng cơ sở, đoàn thể vùng tạm chiếm..., Ban “Công tác thành” ra đời do Hai Nhứt chỉ huy, hoạt động tích cực, trừng trị nhiều tên gian ác, tay sai phản động, rải truyền đơn trong tỉnh lỵ và giết 1 thượng sĩ làm cho bọn lính, tề gian phải sợ hãi, co thủ (ngày 22-4-1947). Song song, có sự hoạt động của Mặt trận Việt Minh, Hội Liên Việt, Hội Phụ nữ Cứu quốc[4]. Hội liên hiệp Công đoàn tuyên truyền, vận động công nhân, thợ thủ công và người lao động buôn gánh bán bưng... đưa vào tổ chức 521 đoàn viên. Ta còn lập được tổ chức Công giáo kháng chiến trong nội thành khoảng 50 người. Đối với giới trí thức, ta vận động được một số công chức, giáo chức đóng góp, ủng hộ cách mạng như ông Lê Đình Hỷ, Lê Trí Mãn, Khương Hữu Tám...
Qua hoạt động của cán bộ, đảng viên và các đoàn thể, ta từng bước xây dựng và củng cố cơ sở cách mạng trong nội ô. Nhờ có cơ sở, nhiều lần cán bộ, lực lượng công an xung phong tỉnh bám vào ăn ở và hoạt động[5].
Cuối năm 1948, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể xã Châu Phú tích cực tuyên truyền chính sách đoàn kết của Đảng và Mặt trận Việt Minh trong đồng bào có đạo, đồng bào dân tộc. Qua đó, đồng bào được hiểu và dần có cảm tình với kháng chiến.
Là trung tâm đầu não chính quyền địch nên xã Châu Phú bị kềm kẹp, kiểm soát gắt gao. Bọn mật thám, làng lính luôn rình rập, lùng sục. Do đó, ta hoạt động rất khó khăn, liên lạc nhận chỉ thị của cấp trên không liên tục, thuận lợi. Vượt qua khó khăn, nguy hiểm, cán bộ, đảng viên từng lúc cũng bám về được hoạt động gây dựng cơ sở.
Năm 1949, trước sự lớn mạnh của lực lượng kháng chiến, thực dân Pháp tập trung củng cố, xây dựng các cứ điểm quân sự, củng cố, kiểm soát chặt đường giao thông bằng đóng tháp canh và đồn trên tuyến lộ Châu Đốc - Tịnh Biên - Tri Tôn… để ngăn chặn quân kháng chiến tiến ra thành Châu Đốc. Riêng ở xã Châu Phú (tỉnh lỵ Châu Đốc), địch tăng cường mật thám trên 20 tên chịu sự chỉ huy của Sở mật thám Cần Thơ. Bọn này thường phối hợp với lực lượng quân sự ruồng bố nội thành và ngoại vi.
Về chính trị, địch tìm cách nắm tầng lớp trí thức có xu hướng “quốc gia” làm hậu thuẫn cho chính quyền Bảo Đại. Về quân sự, tăng cường cho thành Châu Đốc 1 đại đội lính Ả Rập.
Đối phó lại âm mưu, chủ trương của địch, ta tổ chức nhiều tổ tuyên truyền ở nội thành. Các tổ hoạt động mạnh, 17 lần truyên truyền, xung phong vào chợ Châu Đốc, rải, dán truyền đơn, phân phát sách báo cách mạng cho các tiệm buôn và xưởng sửa chữa. Ta cũng xây dựng được các cơ sở dân quân phối hợp với lực lượng địa phương quân bên ngoài 6 lần đột nhập vào nội ô phục kích, khuấy rối địch.
Cuối năm 1950, đồng chí Năm Sơn, Phó Bí thư phụ trách xã Châu Phú, thực hiện chủ trương của Huyện ủy, xuống bám địa bàn hoạt động đã củng cố được chi bộ Châu Phú.
Từ ngày 5 đến ngày 11-9-1951, các tổ tuyên tuyền hoạt động trong xã Châu Phú với nội dung chống đi lính cho địch: “Không vì đồng lương 500 đồng mà xa gia đình để đi tự sát ở biên giới phía Bắc Việt Nam và Triều Tiên”, “Những người đi lính bắt đem đến một nơi không ai biết”. Kết quả là đồng bào, nhất là thanh niên sợ hãi, nhiều người khỏe mạnh không dám đi chợ Châu Đốc vì sợ bị bắt lính.
Ngày 18-9-1951, du kích mật bắn và ném lựu đạn vào hai toán tuần tra cảnh sát trong xã làm 2 tên chết, 4 bị thương.
Cuối năm 1951, xã Châu Phú có đủ các đoàn thể cứu quốc, lực lượng dân quân du kích, dân quân tự vệ thường xuyên hoạt động.
Sang năm 1952, Pháp tập trung lực lượng phản kích hòng giành lại thế chủ động. Đặc biệt ở nội thành Châu Đốc, địch hoạt động mạnh: gài lựu đạn chung quanh tổng hành dinh quân đội Hòa Hảo Dân Xã, tổ chức lực lượng phụ quân trang bị súng trường Mỹ giữ an ninh và ngăn ngừa hoạt động của ta ở địa bàn xã.
Về chính trị, ngày 19-8-1952, địch thả 19 tù chính trị ở Châu Đốc về Sài Gòn hòng lừa bịp dân chúng, thực chất âm mưu theo dõi truy bắt, tiêu diệt cơ sở và tổ chức cách mạng.
Trong năm 1952, du kích xã phối hợp Ban hành động tỉnh lỵ liên tiếp tấn công, phục kích đánh địch trong nội ô như liệng lựu đạn gây tiếng nổ trên đường phố trong đêm nhân kỷ niệm ngày Trần Văn Ơn hy sinh (9-1) ); phục kích quanh đường phố tấn công các đơn vị tuần tiễu của tiểu đoàn 11 làm 1 chết, 1 bị thương (15-8-1952); ném lựu đạn ở chợ Châu Đốc làm bị thương 5 cảnh sát gác chợ (18-8-1952)... Ngày 4-9-1952, lực lượng quân sự địch phối hợp với cảnh sát, công an thị trấn tổ chức càn bố ở chợ Châu Đốc bắt 12 người tình nghi.
Cuối năm 1952 đầu năm 1953, Pháp chuyển hướng chiến lược ra sức bắt lính, sáp nhập lực lượng vũ trang giáo phái vào quân đội quốc gia, củng cố đồn bót trên trục lộ giao thông và tăng cường hoạt động gián điệp, hành quân càn quét lấn chiếm.
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy Long Châu Hà, xã Châu Phú đẩy mạnh công tác Hòa Hảo vận, địch ngụy vận. Chú trọng tầng lớp lao động trí óc, lao động nghèo và học sinh, lấy công nhân, lao động trí óc làm nòng cốt của Mặt trận. Xây dựng, tổ chức cơ sở trong xã để thúc đẩy phong trào đô thị...
Hưởng ứng chiến dịch Điện Biên Phủ, cán bộ, đảng viên xã bám được địa bàn, bám được cơ sở, tuyên truyền tác động nhiều binh lính, bảo an đóng ở xã đào, rã ngũ; đẩy mạnh hoạt động phá hoại.
Ngày 20-7-1954, Hiệp định Genève được ký kết chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy Châu Phú, xã Châu Phú tiến hành sắp xếp, bố trí lực lượng đi tập kết và ở lại, chôn giấu vũ khí, chuẩn bị cơ sở chuyển hướng hoạt động bí mật.
3- Kháng chiến chống đế quốc Mỹ (1954 - 1975)
Sau Hiệp định Genève, chính quyền Ngô Đình Diệm và lực lượng giáo phái giành giật nhau địa bàn cai trị. Tại xã Châu Phú, địch có: 1 đại đội bảo an, tổng đoàn dân vệ, tiểu đoàn khinh quân 508, tiểu đoàn Việt Nam 26 (BVN 26). Đến cuối năm 1954, có thêm tiểu đoàn 718 (người Nùng) miền Bắc di cư, lực lượng Cao Đài đóng 2 đồn bót, bên cạnh còn lực lượng Lâm thành Nguyên (Hai Ngoán) chiếm đóng rải rác.
Tháng 10-1954, Lâm Thành Nguyên ra lệnh cho các đại đội trực thuộc bắt thanh niên trong vùng kiểm soát tuổi từ 18 - 40 gia nhập quân đội Hòa Hảo và đặt ra một thứ thuế 5% đánh vào các hàng hóa xuất và nhập cảng của giới thương buôn Hoa kiều tại Châu Đốc. Ngoài ra, họ còn phải đóng thêm 150.000 đồng mỗi tháng cho Tư lệnh bộ ở Cái Dầu để nuôi quân đội Hòa Hảo Dân xã. Thuế này làm giới thương buôn Hoa kiều hoang mang vì họ bị thiệt hại nặng. Hàng tháng, Lâm Xuân Mai (chú ruột Lâm Thành Nguyên) đến công sở Hoa kiều (chùa Ông - Châu Đốc) để thu tiền.
Như vậy, ngoài sự kềm kẹp, khống chế của chính quyền tay sai Pháp, các tầng lớp nhân dân trong xã và vùng lân cận còn chịu sự áp bức, bóc lột của lực lượng giáo phái, đã tạo ra sự phản kháng ngấm ngầm trong lòng mọi người chờ dịp bùng nổ.
Tháng 8-1954, chính quyền Châu Đốc tập hợp khoảng 6.000 - 7.000 người gồm học sinh, đại diện các nghiệp đoàn, nông dân, tài xế, lao động, đại diện các tôn giáo, công chức, thợ thuyền, thương buôn... trước công sở xã Châu Phú (nay là phường Châu Phú A) buộc mọi người tham gia biểu tình và diễu hành trên đường phố để ủng hộ lời tuyên bố của Bảo Đại, phản đối Việt Minh.
Đối với cách mạng, Hiệp định Genève được ký kết đánh dấu sự thắng lợi của cuộc kháng chiến 9 năm gian khổ. Hòa bình lập lại, nhân dân rất phấn khởi, nhất là những gia đình có con em đi kháng chiến, gia đình binh lính... Ảnh hưởng khí thế chiến thắng, nhân dân hàng ngày bàn tán về Hiệp định. Ở trong xã xuất hiện một nhóm 4 ông cụ có thân thế, có tinh thần dân tộc, yêu nước, hàng ngày đọc báo, bàn tán hoan hô công khai tại một quán nước lôi cuốn thêm hàng chục người mê thời sự. Lâu ngày, 4 ông được mọi người gọi thành danh: “Những ông già Genève ở Châu Đốc”.
Nhà in Nhựt Văn (đường Bạch Đằng) là nơi thường tổ chức thảo luận về Hiệp định của những nhân sĩ, trí thức, chủ nhà in, giáo chức... như các ông giáo Lê Đình Hỷ, Khương Hữu Tám, Tư Thường...
Tỉnh lỵ Châu Đốc (xã Châu Phú) có vị trí, vai trò quan trọng, là vùng tiếp giáp với biên giới và Bảy Núi, địch tập trung lực lượng mạnh hòng phòng thủ biên giới và ngăn chặn sự tấn công của lực lượng cách mạng. Do đó, nhiều cán bộ chưa bị lộ được phân công ra tạo thế hợp pháp xây dựng cơ sở, hệ thống tổ chức nội ô và lãnh đạo phong trào chính trị đòi hiệp thương tổng tuyển cử, đòi quyền lợi dân sinh dân chủ... Đến cuối năm 1954, Thị xã ủy Châu Đốc được hình thành gồm 4 đồng chí, do đồng chí Châu Văn Chê, Tỉnh ủy viên làm Bí thư.
Các đồng chí tạo vỏ bọc hợp pháp trong các ngành nghề để vận động, xây dựng cảm tình, nòng cốt và phát triển cơ sở. Sau thời gian hoạt động, các đồng chí thành lập được chi bộ vùng chu vi Cao Đài (ấp Châu Thạnh) do đồng chí Thân phụ trách gồm: đồng chí Phạm Thị Tốt (Chín Oanh) làm Bí thư, Nguyễn Thị Vân (Chín Ái) và Nguyễn Thị Thịnh; chi bộ khu nội ô do đồng chí Trần Văn Võ phụ trách gồm đồng chí Giàu làm Bí thư, Đức, Phổ, sau thêm đồng chí Danh.
Dù trong thế bị kềm kẹp của địch, nhưng Thị Xã ủy vẫn tổ chức hội họp thường xuyên để chỉ đạo phong trào, địa điểm thường ở đường Cử Trị (nhà cô giáo Giên)... Nhiệm vụ của các chi bộ là bám dân, bám địa bàn xây dựng cơ sở đi vào từng ngành nghề tạo thế hợp pháp hoạt động, hướng dẫn đồng bào đấu tranh đòi dân sinh dân chủ, từng bước rèn luyện tập hợp lực lượng hướng vào mục tiêu cơ bản là đấu tranh buộc địch thi hành Hiệp định Genève. Từng đảng viên, qua mối liên hệ của mình mà nắm tình hình địch, tình hình nhân dân, để có kế hoạch vận động cụ thể.
Thực hiện chỉ đạo của Thị xã ủy, các chi bộ ra sức hoạt động, tiếp xúc quần chúng giáo dục tuyên truyền.
Chi bộ vùng chu vi Cao Đài đi sâu vận động giới công nhân lao động, các nghiệp đoàn ngành nghề. Một thời gian, ta đã xây dựng được các nghiệp đoàn: tài xế xe đò, xe lôi, khuân vác, lao động buôn bán, thợ may... vận động được số công nhân hãng rượu Vĩnh Phong Long.
Chi bộ nội ô đã xây dựng được lực lượng cảm tình như anh Trần Văn Cho (Hai Cho), Ba Tiến, Út Nhì trong nghiệp đoàn tài xế; anh Tư Cự trong nghiệp đoàn xe lôi; anh Phú, cô Nga trong nghiệp đoàn thợ may; ông giáo Tịnh, ông giáo Nguyên, ông Tư Thường, ông Nhựt Văn, ông Tám Tảo trong lực lượng trung gian; ông Phán Chu, ông Đốc Phúc trong công giáo chức; chị Bích, chị Hương... trong Hội truyền bá quốc ngữ; ông Dân Mậu, ông Bảy Tây... trong tiểu chủ. Số này hưởng ứng mọi chủ trương của chi bộ về đấu tranh dân sinh dân chủ. Ta còn tranh thủ vận động được ông Đỗ Hữu Lẽ, Chủ tịch liên hiệp các nghiệp đoàn tỉnh Châu Đốc, qua đó hướng dẫn các nghiệp đoàn đấu tranh như đòi tăng lương, tăng tiền công, giảm thuế...
Tháng 4-1955, ta vận động 40% tiệm lớn, 60% tiệm nhỏ và những người buôn bán lẻ trong nhà lồng chợ Châu Đốc không mở cửa buôn bán, đồng thời vận động quần chúng bên ngoài không đi chợ để đòi lập lại quan hệ bình thường hai miền Nam - Bắc, đòi các quyền lợi dân sinh, dân chủ. Địch phát loa kêu gọi, cho lính đến từng tiệm hăm dọa nhưng đồng bào không nao núng. Địch làm áp lực mạnh thì có 40% tiệm buôn mở hé cửa nhưng không buôn bán gì.
Khi bộ máy chính quyền đã được xây dựng, Ngô Đình Diệm nhanh chóng mở các chiến dịch để tiêu diệt các lực lượng vũ trang giáo phái với ý đồ gọi là “thống nhất các lực lượng vũ trang vào quân đội quốc gia”. Lần lượt, Lâm Thành Nguyên (Hai Ngoán), Lê Quang Vinh (Ba Cụt)… đưa lực lượng về hàng Diệm đổi lấy quyền lợi và chức tước. Sau khi giải tán và tước vũ khí xong lực lượng vũ trang giáo phái, Diệm tập trung phá hoại Hiệp định, đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân. Ngày 24-7-1955, Diệm ban hành chiến dịch “tố Cộng” giai đoạn 1.
Trong lúc này, chính quyền Diệm công bố hủy bỏ loại giấy bạc xé hai[6] mà nhân dân đang sử dụng, làm nhân dân lo lắng, bất bình. Thực hiện chủ trương của Thị xã ủy, chi bộ nội ô phát động đấu tranh làm áp lực đòi chính quyền Châu Đốc đổi tiền cho dân. Ngày 26-7-1955, 7 phụ nữ là cơ sở cách mạng được chi bộ vận động, mang kiến nghị đến dinh Tỉnh trưởng. Lính gác không cho vào, chị em tranh thủ mãi không được nên lớn tiếng tố khổ gây cảnh giằng co, lôi kéo. Thấy tình hình căng thẳng, ta tung tin là Tỉnh trưởng cho đổi bạc, đồng bào ấp Châu Thạnh, nội ô cùng đồng bào ấp Châu Long, Châu Thới, Châu Quới… kéo đến mỗi lúc càng đông, thậm chí khách vãng lai cũng tham dự. Địch điều một xe tải đậu chắn ngang cửa và tăng viện hơn 10 lính, súng trường lấp lê để đe dọa đồng bào. Đồng bào vẫn bình tĩnh tiếp tục tố khổ, ngay cả vợ lính, công chức cũng tham gia ủng hộ. Cuộc đấu tranh trực diện biến thành cuộc biểu tình qui mô lên đến hàng ngàn người. Tiếng hô, la vang dội cả khu vực chung quanh dinh tỉnh. Cuối cùng, Tỉnh trưởng Châu Đốc phải ra mặt xoa dịu, hứa đề đạt nguyện vọng của đồng bào lên cấp trên giải quyết để giải tán cuộc biểu tình.
Ngày 29-7-1955, chi bộ nội ô tổ chức rải truyền đơn trên đường phố kêu gọi đồng bào đồng lòng triệt để đình công, bãi thị vào ngày 29-7-1955 để đòi: “Trả lại tự do cho những người bị bắt trong cuộc biểu tình ngày 28-7-1955”; “Đòi chính phủ xài lại giấy bạc 1 đồng, 10 đồng và 5 đồng”...
Chi bộ còn vận động hướng dẫn gia đình những người bị bắt làm đơn trực tiếp gởi Ủy hội quốc tế Tân Châu tố cáo chính quyền địch vi phạm Hiệp định Genève, khủng bố nhân dân, đòi trả tự do cho những người bị bắt.
Đêm 6-8-1955, chi bộ tổ chức rải truyền đơn trên đường Nguyễn Đình Chiểu và Louis Pasteur có nội dung:
“Cùng toàn thể đồng bào thân mến !
Để hưởng ứng cuộc đấu tranh ngày 7-8-1955 và biểu lộ tinh thần đấu tranh cụ thể đòi nhà đương cuộc có thẩm quyền ở miền Nam thi hành đúng đắn các điều khoản đã ghi trong Hiệp định Genève, đặc biệt là đối lập lại quan hệ bình thường giữa hai miền Nam - Bắc, mở Hội nghị hiệp thương để bàn định cách thức tổng tuyển cử tự do vào tháng 7 năm 1956 để thống nhứt nước nhà và đòi đổi giấy bạc 10 đồng, 5 đồng, 1 đồng, xé hai, thời gian phải dài hạn, mỗi xã phải có 1 địa điểm.
Vì quyền lợi và nguyện vọng chánh đáng của toàn thể đồng bào và Tổ quốc, chúng tôi kêu gọi toàn thể đồng bào, tất cả xe cộ, tàu bè, xuồng ghe đúng 5 giờ sáng ngày 7-8-1955 đến 12 giờ khuya, hãy ngưng hẳn mọi sanh hoạt (tức là đình công bãi thị).
Đồng bào hãy đoàn kết tiến lên hưởng ứng và đấu tranh để giành thắng lợi.
Việt Minh và Liên Việt”[7].
Phong trào đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân buộc chính quyền địch ra thông báo: Giấy bạc xé hai vẫn còn giá trị lưu hành. Đến ngày 10-8-1955 địch thả 2 người trong số bị bắt.
Công tác binh vận, ta vận động một số gia đình có con làm sĩ quan ở nội ô và xây dựng thành cơ sở như gia đình ông Tòng (con là trung úy ở trong nhà), con dâu phục vụ cơm nước khi Thị xã ủy Châu Đốc, Huyện ủy Châu Phú tổ chức họp nơi đây.
Ngày 23-10-1955, Diệm tổ chức “trưng cầu dân ý” truất phế Bảo Đại lên làm tổng thống, tiếp theo tổ chức bầu cử quốc hội (4-3-1956).
Đến cuối năm 1955, 2 đồn do quân đội Cao Đài đóng giữ ở nội ô đều giao lại cho quân đội Diệm.
Để khủng bố tinh thần dân chúng và ngăn chặn cán bộ cách mạng đột nhập vào thành phá hoại cuộc bầu cử, ngày 2-3-1956, địch mở nhiều cuộc ruồng xét bắt trong vùng châu vi Cao Đài hơn 200 người.
Mức độ đánh phá của địch ngày càng dữ, công an, mật thám lùng sục, tìm kiếm cơ sở, cán bộ và đàn áp phong trào cách mạng. Tình hình khó khăn, thực hiện chủ trương của Thị xã ủy, cán bộ, đảng viên phân tán ra vùng ven thị xã tránh tiêu hao lực lượng. Chi bộ nội ô rút xuống Khánh Hòa, chi bộ Chu vi Cao Đài không còn do các đồng chí trong chi bộ chuyển địa bàn hoạt động.
Địch thường xuyên tổ chức các cuộc hành quân cảnh sát, cho mật thám, chỉ điểm giả dạng người mua bán, theo dõi những nhà tình nghi, thậm chí bao ráp các hãng xưởng nhìn mặt từng người. Cán bộ ta phải thay đổi chỗ ở liên tục, xây dựng nhiều cơ sở mới để bảo đảm an toàn. Việc đi lại hết sức khó khăn, hoạt động bị hạn chế.
Sử dụng đòn tâm lý tác động tinh thần dân chúng trợ lực cho chiến dịch “tố Cộng”, sáng ngày 19-2-1956, chính quyền địch bày trò tổ chức một cuộc lễ “đảng viên Đảng Cộng sản ly khai Đảng” trước công sở Châu Phú. Sáu tên đóng vai cựu cán bộ Việt cộng lên diễn đàn kể lể xuyên tạc và tuyên bố ly khai Đảng Cộng sản. Chúng xé và chà đạp 2 lá cờ đỏ sao vàng. Cuối cùng, một cuộc biểu tình được bố trí sẵn với hơn 1.000 dân chúng đủ thành phần buộc phải trương biểu ngữ đi khắp đường phố hô to khẩu hiệu “đả đảo Việt cộng”.
Dù tổ chức rầm rộ, ngụy tạo như thế nhưng chính quyền địch vẫn không lừa bịp được người dân yêu nước. Sự phản kháng của họ được biểu lộ qua hành động: 6 người dân đã bị cảnh sát bắt sau buổi lễ vì có những hành động phá hoại cuộc biểu tình.
Ngày 26-2-1956, địch bắt vợ chồng Trương Văn Nghề, Lâm Thị Khéo (làm nghề góp chợ) và Lê Văn Tựu đang rải truyền đơn và dán những bích chương ở các nẻo đường trong xã có nội dung phản kháng cuộc bầu cử Quốc hội vào ngày 4/3/1956 như:
- Phải tổng tuyển cử Tổ quốc 7-1956.
- Bỏ thăm cho Diệm là tự sát.
- Thi hành Hiệp định Genève.
- Phản đối tàn sát những người yêu nước.
- Phản đối bỏ thăm riêng.
- Phản đối trại tập trung Chí Hòa.
- Trả lại tự do cho những người bị bắt vô cớ.
- Phải hiệp thương giữa Nam và Bắc để tổng tuyển cử tự do thống nhất nước nhà.
- Phải giảm các thứ thuế cho dân.
Địch còn bắt thêm Nguyễn Văn Bảo, Trương Công Lý, Đào Vương Nghiệp trong lúc toan hủy 1 bức thư viết bằng chữ Việt và Hoa. Nội dung:
- Đả đảo Ngô Đình Diệm hại dân.
- Ủng hộ Hồ Chí Minh vạn tuế.
- Vạn tuế Cộng sản, truất phế Ngô Tổng thống Việt Nam.
- Ngô Đình Diệm là 1 người giựt của dân[8].
Gần đến thời gian tổng tuyển cử theo qui định của Hiệp định Genève, địch càng đánh phá quyết liệt, phát động chiến dịch “tố Cộng” giai đoạn 2 (8-6-1956), đưa quân đội thay thế lực lượng bảo vệ trụ sở Ủy hội Quốc tế Tân Châu, vô hiệu hóa người đại diện quốc tế, trắng trợn lộ mặt phát xít.
Ở xã Châu Phú, địch thường xuyên đưa quân đội, cảnh sát, công an phối hợp ruồng bố, bao xóm hăm dọa, xét nhà, chặn đường tìm bắt cán bộ cách mạng, tạo tâm lý ngán ngại lo sợ trong nhân dân trong việc tham gia ủng hộ, nuôi chứa cán bộ. Ngày 23-10-1956, địch tổ chức ruồng xét vùng chu vi Cao Đài, đường Thủ Khoa Nghĩa, bắt 58 người[9].
Trước sự đánh phá của địch, các chi bộ trong thị xã bị sút giảm, các đồng chí lãnh đạo thị xã được điều chuyển đi nơi khác, tổ chức Thị xã ủy không còn.
Giữa năm 1957, theo sự thay đổi địa bàn hành chính của địch, hai tỉnh Long Xuyên, Châu Đốc nhập lại thành tỉnh An Giang. Trên địa bàn xã Châu Phú chỉ còn 4 đảng viên hoạt động dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy Châu Phú.
Năm 1958, đồng chí Lê Thị Tiểng (Ba Thanh Cương) từ Đồng Tháp về Châu Đốc hoạt động hợp pháp bằng nghề may, nhưng bí mật làm liên lạc, chuyển tài liệu, rải truyền đơn và xây dựng cơ sở.
Hội Phụ nữ Việt Nam quận Châu Phú, một hội đoàn thể công khai của chính quyền Sài Gòn, trong đó có cán bộ ta làm nòng cốt, tổ chức nhiều cuộc mít-tinh ở chợ Châu Đốc, đưa tài liệu với nội dung khơi dậy lòng yêu nước, ý chí căm thù trước hành động tàn ác của chính quyền Sài Gòn và tay sai.
Trong năm 1958, đề phòng ta tấn công phá hoại, chính quyền địch đề kế hoạch phòng thủ quận lỵ Châu Phú (xã Châu Phú). Ngoài lực lượng hiện trú đóng, còn tăng cường thêm 1 đại đội thuộc trung đoàn 2/32, 1 trung đội tỉnh đoàn bảo an, 1 đại đội đặc biệt 31, 20 nhân viên cảnh sát và đội cứu hỏa, 1 trung đội quận đoàn bảo an, 12 nhân viên công an, 54 hiến binh và an ninh quân đội. Hàng đêm, lực lượng phối hợp gồm trung đoàn 33, an ninh, công an, cảnh sát, bảo an, hiến binh… đi tuần tiễu, bố ráp.
Trước sự đánh phá ngày càng ác liệt của chính quyền địch, đặc biệt là Luật 10/59 đàn áp đẩm máu cán bộ cách mạng và nhân dân, thì tư tưởng vũ trang đánh địch trở nên mạnh mẽ trong cán bộ, chiến sĩ cách mạng và nhân dân.
Đáp ứng yêu cầu đó, Nghị quyết 15 của Trung ương ra đời cho phép sử dụng vũ trang. Thực hiện chỉ đạo của Tỉnh ủy, Huyện ủy Châu Phú chuẩn bị đồng khởi, xã Châu Phú lập chi bộ do đồng chí Nguyễn Thị Đa (Tám Đa) làm Bí thư, cùng các đồng chí Ba Ứng, Nguyễn Thị Minh Tâm, Hai Lé, Vũ Ngọc Oanh,Tư Cự, Lê Thị Tiểng, La Thị Thu. Chi bộ phân công các đảng viên (hợp pháp) phụ trách khu vực. Đồng chí Hai Lé ở khu tiệm rượu Vĩnh Phong Long (ấp Châu Thạnh), Vũ Ngọc Oanh ở đường Núi Sam, Tư Cự khu chợ gà, La Thị Thu ở chợ Châu Đốc.
Ngày 2-9-1960, kỷ niệm ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, xã Châu Phú tổ chức treo cờ đỏ sao vàng, treo biểu ngữ trên các cây to ven đường hoặc cắm trên bè chuối thả trôi sông, đồng thời, rải truyền đơn trên các đường Nguyễn Trường Tộ, Thủ Khoa Nghĩa, đường Núi Sam, đường Cử Trị, rạp hát... Nội dung phản kháng thành lập sân bay Nhà Bàng; yêu cầu mở hiệp thương; thực hiện dân chủ bằng cuộc tổng tuyển cử; trả tự do cho những người bị bắt vì hoạt động chính trị...
Hưởng ứng phong trào đồng khởi toàn tỉnh, lực lượng tự vệ mật trong thanh niên lao động tổ chức treo cờ, rải truyền đơn khắp nơi từ nội ô đến đường Núi. Riêng đội tự vệ mật huyện Châu Phú hoạt động trên địa bàn xã Châu Phú tổ chức treo cờ, dán áp phích, tán phát tài liệu, truyền đơn, lời kêu gọi của Mặt trận... khắp nội ô, đồng thời tham gia cùng du kích diệt ác, đặt chất nổ gây tác động làm rối loạn hậu phương địch.
Ngày 20-12-1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời là sự kiện trọng đại, đánh dấu sự phát triển của phong trào cách mạng. Sau đó Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng tỉnh An Giang và các cấp được hình thành ra mắt nhân dân. Tháng 4-1961, Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng huyện Châu Phú thành lập. Chào mừng sự kiện này, chi bộ tổ chức cho cơ sở treo cờ ở nóc chợ cá, treo biểu ngữ, rải truyền đơn ở khu vực nhà Trương Tấn Vị (Phủ Vị), đường Thủ Khoa Nghĩa... tạo khí thế trong nhân dân. Đồng thời, nhân dân trong xã còn phấn khởi tham dự cuộc mít-tinh mừng ngày Mặt trận huyện Châu Phú ra đời tại Bà Bài (ấp Vĩnh Quí, Vĩnh Nguơn).
Sau đồng khởi, phong trào cách mạng phát triển, đẩy mạnh ba mũi giáp công tiếp tục diệt ác, đánh địch mở rộng hoạt động. Trong tháng 3-1961, lực lượng cách mạng thực hiện 1 vụ cảnh cáo ác ôn, 1 vụ phục kích ở xã.
Phá hoại cuộc bầu cử tổng thống của địch (9-4-1961), du kích mật đã ném 2 trái lựu đạn vào phòng phiếu đặt tại trường Thủ Khoa Nghĩa. Rạng ngày 9-4-1961, chi bộ xã Châu Phú bố trí cơ sở đặt mìn tại công sở Châu Phú. Mìn bị lép không nổ nhưng cũng làm một số nhân viên bất tỉnh vì quá sợ hãi.
Đối phó với phong trào cách mạng ngày càng lớn mạnh, chính quyền An Giang vội thay đổi kế hoạch, biện pháp lấy xã, ấp làm địa bàn đối đầu với cách mạng. Trên địa bàn huyện Châu Phú, chúng tăng cường lực lượng dân vệ, bảo an, cảnh sát, biệt động quân mở nhiều cuộc hành quân càn quét ít nhất 20 lần trong tháng. Song song, địch tiến hành củng cố hội đồng xã, thanh lọc hàng ngũ trong bộ máy hành chánh, dân vệ; tăng cường mạng lưới tình báo gây chia rẽ dân tộc, tôn giáo.
Từ cuối năm 1961, chính quyền An Giang tiến hành âm mưu bình định trong việc thực hiện quốc sách gom dân lập ấp chiến lược để kềm dân, tách dân ra khỏi Đảng, cô lập và tiêu diệt lực lượng cách mạng. Xã Châu Phú là một trong những thí điểm xây dựng ấp chiến lược của huyện Châu Phú với các ấp Châu Thạnh, Châu Quới,… Hỗ trợ cho xây dựng ấp chiến lược là các chiến dịch “xây dựng nông thôn”, “Bình định và chiêu an” song song với kế hoạch an ninh, xây dựng mạng lưới tình báo sâu rộng kết hợp với chiêu hồi, chiêu hàng đánh vào cơ sở cách mạng. Địch sử dụng tên Bé Dũng đầu hàng, theo dõi chỉ điểm đánh phá cơ sở ở trong xã. Trên địa bàn xã Châu Phú còn có 2 tiểu đội cảnh sát, hiến binh, công an và 1 tổng đoàn dân vệ.
Trước tình hình đó, Huyện ủy chỉ đạo cán bộ quyết tâm bám địa bàn, phát động quần chúng đấu tranh chính trị, binh vận chống các chính sách của Mỹ - chính quyền Sài Gòn; tổ chức lực lượng tự vệ mật để đánh phá các cứ điểm quân sự, song song diệt ác bảo vệ cơ sở.
Trong 2 năm 1962 - 1963, hoạt động chủ yếu của xã Châu Phú là vũ trang đánh lẻ, gây rối chống phá bình định và diệt ác như đột nhập nội ô giựt mìn phá hư công sở xã Châu Phú; phục kích bắn chết 4 dân vệ tại ấp Châu Thạnh 5... Cuối năm 1962, ta 3 lần tổ chức mới diệt được tên Bé Dũng tạo phấn khởi trong nhân dân, thúc đẩy hoạt động của cơ sở và phong trào cách mạng[10].
Hoạt động vũ trang của lực lượng cách mạng đã làm thất bại kế hoạch bình định và xây dựng ấp chiến lược của địch. Trước tình hình đó, chính quyền An Giang đặt quận lỵ Châu Phú vào loại cố thủ và ra lệnh triệt hạ các tháp canh: cầu số 2, chùa Pháp Võ...
Đầu năm 1964, chính quyền Sài Gòn thực hiện kế hoạch bình định trong vòng 2 năm, đồng thời thay tên ấp chiến lược thành ấp tân sinh. Theo kế hoạch, đến tháng 7-1964, địch sẽ củng cố, xây dựng các ấp tân sinh: Châu Thạnh 1, Châu Thạnh 2, Châu Thạnh 3, Châu Thạnh 4, Châu Thạnh 5.
Thực hiện chủ trương của huyện, xã Châu Phú phát triển cơ sở hợp pháp, bán hợp pháp, đẩy mạnh đấu tranh ba mũi gây rối hậu phương địch. Du kích xã phát triển từ 1 - 2 tiểu đội, thường kết hợp địa phương quân huyện phục kích, tấn công đồn bót, phá ấp tân sinh…
Tháng 2-1964, du kích xã tấn công bán đội dân vệ và thanh niên chiến đấu đóng tại Châu Thới 2 làm 1 dân vệ bị thương nặng, lấy 1 súng lục, 1 carbine, 1 máy điện thoại; đặt mìn nổ tung cầu số 4 trên đường liên tỉnh 10 núi Sam - Châu Đốc.
Ngoài ra, du kích xã còn kết hợp với địa phương quân huyện tấn công tháp canh thanh niên chiến đấu ở Trường Đua (ấp tân sinh Châu Thạnh 1); ném lựu đạn trước công sở xã Châu Phú làm bị thương 3 thanh niên chiến đấu, 2 dân vệ.
Ngày 1-10-1964, chính quyền Sài Gòn tái lập tỉnh Châu Đốc và sau đó, tiến hành tổ chức, sắp xếp bộ máy hành chánh, quân sự... Dân vệ và thanh niên chiến đấu được đồng hóa gọi là nghĩa quân. Lính bảo an đổi thành địa phương quân, ngoài Ban chỉ huy đóng tại tỉnh lỵ còn có đại đội 818 đóng tại quận lỵ Châu Phú. Đồng thời, để phòng tránh lực lượng cách mạng đánh diệt các đơn vị quân sự, ngụy quyền tổ chức mỗi ấp 1 tiểu đội (11 người) hoặc 1 liên đội (25 người) nghĩa quân.
Đầu năm 1965, địch tiến hành kế hoạch bình định, tăng cường lực lượng bảo vệ ấp tân sinh, tổ chức hành quân càn quét để đánh phá cơ sở cách mạng. Song song tổ chức phát triển cơ sở tình báo trong nhân dân.
Theo sự phân chia địa bàn của địch, ta cũng điều chỉnh địa giới. Xã Châu Phú tách khỏi huyện Châu Phú trở thành thị xã Châu Đốc. Ban cán sự thị xã được thành lập do đồng chí Trần Văn Võ (Năm Bình) làm Trưởng ban. Ban cán sự phân công các cán sự viên hoạt động xây dựng cơ sở ở nội ô, làm nòng cốt cho hoạt động vũ trang. Nhiều cơ sở được xây dựng như: gia đình anh Năm Bảo ở xóm Hàng xáo, cô Tố Anh (đường Thủ Khoa Huân)… Ban cán sự bám vào hoạt động hợp pháp, sinh hoạt, nắm tình hình, tuyên truyền, giao dục phát triển cơ sở mới.
Liên tục quân giải phóng đột nhập vào xã Châu Phú hoạt động. Đội biệt động ném lựu đạn, đánh mìn trên đường Cử Trị và một số đường phố khác làm cho địch lúng túng, lo lắng.
Ngày 26-8-1965, đội biệt động thị xã về ấp Châu Thạnh 1, tổ chức diệt ác trừ gian.
Năm 1966, đội biệt động pháo kích đồn Trường Đua và phát động trên 50 đồng bào đưa tin chiến thắng An Phú gây dư luận tấn công thúc đẩy gia đình binh sĩ đi chợ thị xã níu kéo chồng, con em mình và ngăn cản không cho đi tiếp viện.
Các hoạt động liên tục của quân giải phóng làm chính quyền địch hoang mang. Chúng gấp rút đề kế hoạch đối phó: tổ chức tình báo viên và mạng lưới tình báo nhân dân theo dõi những người tình nghi, đồng thời lập nhiều toán nhân viên kiểm tra dân số, phân loại dân chúng. Tất cả đều nhằm ngăn chặn lực lượng cách mạng xâm nhập vào thị xã Châu Đốc.
Trước kế hoạch đối phó của địch, ta chuyển hướng hoạt động về đường núi và vùng chu vi Cao Đài.
Trong tháng 9, đội biệt động bám đường Thủ Khoa Nghĩa, chu vi Cao Đài bắn chết 1 công an có mang súng ngắn; ném lựu đạn vào văn phòng ấp Châu Thạnh 2, rải truyền đơn, tuyên truyền xung phong rồi rút đi an toàn.
Tháng 10-1966, đội biệt động bám vô nội ô chặn đường diệt 1 phụ tá an ninh ấp thu toàn bộ súng đạn lúc chúng mang về nộp cho tề xã. Sau đó, đội biệt động bố trí 9 chiến sĩ đi 3 xuồng bất thần tấn công nhà và bè cá của Dương Văn Thuần, Ủy viên cảnh sát ác ôn làm hắn bị thương, thu 1 súng carbine, 1 radio và một số quân trang quân dụng.
Năm 1967, thị xã Châu Đốc có các chi bộ: Vĩnh Chánh 3, Châu Long, chu vi Cao Đài, nội ô… Ban cán sự thị xã chuyển thành Thị xã ủy, do đồng chí Nguyễn Văn Bảng (Tư Kỉnh) làm Bí thư. Nhiều cơ sở nội ô làm nơi hội họp của Huyện ủy Châu Phú và Thị xã ủy Châu Đốc như: nhà ông Phán Long, Phán Bích, Lê Công Sáu, anh em ông Phán Ngọ, ông Nhựt Văn…
Đêm 11 rạng 12-10-1967, nhằm mục đích tấn công cơ quan hành chính quận Châu Phú (nay UBND phường Châu Phú A), lực lượng tỉnh phối hợp với lực lượng thị xã chia làm 3 mũi:
+ Mũi 1: từ chùa Ông Kỉnh (đường Cử Trị) đánh Trạm kiểm soát tài nguyên.
+ Mũi 2: xung phong từ phía sau cơ quan hành chính tấn công lực lượng canh phòng, đánh chiếm cơ quan.
+ Mũi 3: tấn công chi cảnh sát quận Châu Phú.
Kết quả sau gần 1 giờ tấn công, ta đã gây cho địch nhiều thiệt hại. Theo báo cáo của địch thì trạm cảnh sát kiểm soát tài nguyên, trụ sở quận, chi cảnh sát quận bị hư hại nặng, 10 lính chết (các loại), 8 bị thương. Riêng khu vực thành P.C có 2 chết (1 cố vấn Mỹ), 24 bị thương (có 9 cố vấn Mỹ), hai tàu tuần giang bị hư hại nặng. Ta thu nhiều súng đạn và đồ dùng quân sự, văn phòng. Đặc biệt trong trận này, ta diệt được Bé tí hon, một tên đầu hàng phản bội nguy hiểm. Trước khi rút lui, ta rải nhiều truyền đơn, thông cáo kêu gọi binh lính, tề xã, ấp rời bỏ hàng ngũ địch trở về với nhân dân.
Đội biệt động thị xã còn độc lập đánh chớp nhoáng chiếm lô cốt dân vệ ấp Châu Thạnh 2, làm chủ đường Louis Pasteur; bắt giáo dục và phóng thích tại chỗ 3 phòng vệ dân sự xung kích, thu 1 carbine và 1 số lựu đạn.
Các hoạt động táo bạo của lực lượng vũ trang làm địch hoang mang, bọn tay sai, chỉ điểm, ác ôn ở ngoài vùng ven đều tản tránh vô nội ô. Ban đêm nhân dân làm chủ ở các đường Núi, Cử Trị, Thủ Khoa Nghĩa, Louis Pasteur. Địch ngày càng có phản ứng yếu dần, lo tập trung bảo vệ các đường giao thông, vùng ven quanh thị xã.
Đầu tháng 10-1967, học sinh trường Thủ Khoa Nghĩa liên tiếp xuống đường đấu tranh chống bắt lính. Đặc biệt ngày 22-11-1967, hơn 2.000 học sinh thị xã bãi khóa xuống đường biểu tình chống bắt lính. Cuộc đấu tranh đã được các bậc phụ huynh và đông đảo nhân dân thị xã ủng hộ, buộc địch phải giải quyết các yêu sách của học sinh.
Chuẩn bị cho đợt tổng tấn công vào thị xã Châu Đốc, Thị xã ủy phân công nhiệm vụ cho cán bộ chủ chốt: đồng chí Trần Văn Võ, Thường vụ Thị xã ủy, phụ trách Tuyên huấn cùng đồng chí Huỳnh Văn Năm đột vô nội ô (xã Châu Phú) trước liên hệ cơ sở, bám ở chùa Kim Quang (đường Cử Trị) nắm tình hình khu vực này; đồng chí Thanh Cương ở khu 2 (trung tâm nội ô), đã xây dựng nhà cô giáo Nguyễn Thị Giên (đường Cử Trị) làm điểm đứng chân cho cán bộ, vận động đồng bào đường Cử Trị, Thủ Khoa Huân nuôi chứa, tiếp tế lương thực cho đội biệt động; đồng chí Phạm Thị Tốt (Chín Oanh) ở khu 3 (Châu Thạnh 1, 2, 3, 4 - chu vi Cao Đài), đã xây dựng 4 mối giao liên phục vụ đưa rước cán bộ, vận chuyển thuốc nổ, truyền đơn từ căn cứ vào nội ô.
Hai giờ sáng ngày 31-1-1968 (mùng 2 Tết), pháo lệnh nổ, quân giải phóng đồng loạt nổ súng tấn công các mục tiêu đã định. Một đơn vị của tỉnh tấn công Ty công an… Trong vài phút đầu, đội biệt động thị xã đã chiếm được bót Control và phát triển chiến đấu làm chủ đường Cử Trị, đường Núi, đồng thời, phối hợp với lực lượng tỉnh, ta đánh chiếm được đồn quân cảnh, Ty Thanh niên, đánh mở rộng lên đường Cử Trị, khu vực cầu An Biên. Một cánh khác thọc sâu vô trung tâm đánh chiếm khách sạn Mỹ Lộc, rạp hát Tân Việt, trụ sở Usom...
Lực lượng vũ trang huyện Châu Phú chia ra các cánh quân: cánh thứ nhất do đồng chí Bảy Cường và Lê Văn Công (Công lũi) chỉ huy, tấn công từ hướng thánh thất Cao Đài xuống nhà Phủ Vị; cánh thứ hai do đồng chí Mai Trung Tín chỉ huy, đánh từ vàm kinh Vĩnh Tế xuống hãng rượu Vĩnh Phong Long và khu nhà Mỹ.
Hưởng ứng lời kêu gọi nổi dậy của cách mạng, một số đồng bào thị xã tham gia kéo các lá cờ ba sọc của chính quyền Sài Gòn từ các trụ sở liệng xuống đường. Đồng thời, dân hai bên nhà phố hé cửa đưa ra những bao thuốc lá, những rổ trái cây, bánh mứt, dưa hấu, những chai nước ngọt… tiếp tế quân giải phóng.
Ta và địch giằng co nhau ở nội ô, địch co cụm phòng thủ chặt ở thành P.C và nhà Phủ Vị. Mười giờ sáng ngày 31-1-1968 (mùng 2 Tết), đội biệt động thị xã đánh lui địch ở đồng xa, không cho bám vô được nhà dân, đồng thời phát loa kêu gọi đồng bào “nhiệt tình ủng hộ, tiếp tế, ủy lạo bộ đội, chỉ đường dẫn lối cho bộ đội giải phóng tấn công, kêu gọi binh sĩ, cảnh sát “hãy tách ngay khỏi hàng ngũ Mỹ ngụy, buông súng về nhà hoặc tham gia lực lượng cách mạng chống địch lập công...”.
Chiều ngày 31-1-1968, địch bắt đầu đưa lực lượng phản kích. Lực lượng sư đoàn 21 từ Cần Thơ lên chi viện từ hướng sân bay Châu Đốc tiến vào nội ô. Hàng trăm đạn pháo từ An Phú, núi Sam, sân bay bắn cấp tập. Máy bay trực thăng quần đảo bắn rốckét xuống nhà dân ở khu vực đường Cử Trị, Bảo Hộ Thoại, đường Núi... Hàng trăm nhà dân đã biến thành tro. Sau đó, địch đổ quân tìm cách tiến quân vào nội ô, bị lực lượng ta chặn đánh phải trụ lại chờ sáng. Năm giờ chiều, địch đưa 1 tiểu đoàn từ căn cứ Núi Đất (Tịnh Biên) ra núi Sam để chuẩn bị phản kích vào nội ô Châu Đốc. Có lực lượng tiếp viện, địch trong khu vực thành P.C, Phủ Vị... đánh ra hòng chiếm lại các nơi bị mất. Một xe đốt-cát chở 4 tên (có 1 Mỹ) từ hướng núi Sam chạy ra bị lực lượng ta dùng B.40 bắn diệt, cách cầu số 2 khoảng 100m.
Địch càng lúc tập trung quân tăng viện cho Châu Đốc. Thấy tình hình lực lượng ta không đủ khả năng trụ lại để ngăn chặn lực lượng địch ngày càng đông nên Ban chỉ huy ra lệnh lùi ra. Bộ phận thị xã Châu Đốc kết hợp với lực lượng tỉnh từng khu vực tổ chức rút về căn cứ.
Sau tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân, Mỹ thay đổi chiến lược từ “Tìm diệt” sang “Bình định cấp tốc”, “Bình định đặc biệt”; lập “Ủy ban Phượng Hoàng”; tổ chức nhân dân tự vệ, đưa cán bộ xây dựng nông thôn, có nghĩa quân yểm trợ xuống xã, ấp. Song song tổ chức các cuộc hành quân, tuần tiễu trong nội ô và vùng ven.
Du kích mật xã kết hợp đội biệt động liên tục đột nhập vào nội ô rải truyền đơn, phá hoại cơ sở vật chất của địch.
Ngày 11-1-1969, lực lượng giải phóng rải truyền đơn trên đường Đốc Phủ Thu (nay là đường Đống Đa), tại quán cơm Xã hội (đường Đốc Phủ Thu - Phan Văn Vàng) với danh nghĩa Huỳnh Văn Trí, sư thúc Phật giáo Hòa Hảo, kêu gọi tín đồ tham gia Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam; tố cáo âm mưu, tội ác của chính quyền Sài Gòn.
Trong năm 1969, trên địa bàn xã Châu Phú diễn ra các trận đánh của tổ du kích mật học sinh (Nguyễn Đình Hùng, Nguyễn Đình Huấn, Nguyễn Thị Tờ, Phạm Phong Hải) như đánh vào Câu lạc bộ Mỹ đường Trần Hưng Đạo bằng chất nổ C.4 làm chết 9 tên Mỹ, 7 bị thương (có 3 Mỹ), được cấp trên khen thưởng Quân chương chiến công hạng III. Song song, tổ còn tổ chức treo cờ, rải truyền đơn trên đường phố. Nội dung kêu gọi giới học sinh vùng lên cùng dân chúng hướng về Mặt trận giải phóng chống Mỹ, chống chính quyền tay sai cứu nước; đặt chất nổ phá hủy văn phòng Hội đồng xã Châu Phú (ngày 25-11-1969) làm 1 chết, 6 bị thương (có 1 ủy viên hộ tịch xã); dùng chất nổ đánh 1 xe GMC đậu gần Bồ Đề đạo tràng (tháng 12-1969); đánh 1 xe Jeep đậu gần khách sạn Mỹ Lộc... Riêng tổ nữ du kích mật thị xã đặt chất nổ tại quán giải khát Mây Biên Thùy (đường Đốc Phủ Thu) đúng vào ngày khai trương (24-9-1969) làm chết và bị thương 7 tên địch (có 2 sĩ quan Mỹ)[11].
Hoạt động của các tổ du kích mật ở nội ô đã có tác động lớn, bọn địch luôn nơm nớp lo sợ. Chúng ráo riết truy lùng, đồng thời tăng cường kiểm tra, phòng bị, nhất là ở các công sở.
Trong năm 1969, chi bộ nội ô, chi bộ chu vi Cao Đài đưa 7 đảng viên tham gia học tập NQ 8 và Chỉ thị 41/CTNT (xây dựng chi bộ 4 tốt[12] và phát triển đảng viên lớp Hồ Chí Minh). Thị xã ủy đưa được 6 cán bộ bên ngoài vào nội ô làm nhiệm vụ tuyên truyền và phát động gây dựng cơ sở; củng cố 2 chi bộ mật, phát triển 1 đảng viên nội ô.
Năm 1970, địch đẩy mạnh bình định đặc biệt, tăng cường 4 xe nồi đồng ban đêm nằm theo các ngã đường nội ô để phòng thủ, sợ ta tấn công. Địch còn liên tục tổ chức càn quét, bao ráp truy bắt cơ sở cách mạng, bắt lính ở xã Châu Phú; phát hiện cơ sở hoạt động hợp pháp, bắt 2 đảng viên, 4 đoàn viên, bắt 9 cán bộ cơ sở binh vận.
Thực hiện đợt ABC (chuyển diện, chuyển vùng, diệt ác, phá kiềm), chi bộ nội ô, chi bộ chu vi Cao Đài liên lục sử dụng các hình thức tuyên truyền bề rộng, phát động các cơ sở, rể chuỗi, tổ chức bám hợp pháp gây dư luận bàn bạc ra ngoài; diệt một số ác ôn và cảnh cáo nhiều tên khác; phát động phong trào đấu tranh của học sinh và đưa phong trào đấu tranh của quần chúng lao động, buôn bán ở chợ.
Trong năm 1970, ta phát triển 3 đảng viên mật ở khu 2, 6 đảng viên ở khu 3; 1 đảng viên lộ ở khu 2, 5 đảng viên lộ ở khu 3.
Đầu năm 1971, lực lượng địch đóng trên địa bàn khu 2 (trung tâm nội ô) có 315 quân các loại gồm: 2a nghĩa quân đóng 2 tháp canh, 1a quân cảnh đóng contrôl đường Núi, phòng vệ dân sự 250 tên luân phiên gác ban đêm những điểm: đầu cầu số 2, chùa Châu Viên; 15 tề ở 5 ấp.
Đóng 5 cao điểm ở trường Khải Minh, Bar Nam Hiệp, khách sạn Ngũ Châu, rạp hát Lạc Thanh, rạp hát Tân Việt.
Ở khu 3 (chu vi Cao Đài), địch có 495 tên gồm: 10 nghĩa quân đóng 1 tháp canh, 2b bảo an đóng thành P.C, 10 tên Mỹ ở Bungalo, 1b bảo vệ.
Đóng cao điểm ở trường Thủ Khoa Nghĩa gồm 1a cảnh sát dã chiến, 10 tên ở nhà tư sản đầu đường Nguyễn Đình Chiểu, phòng vệ dân sự 250 tên, luân phiên gác ban đêm cầu cây, ấp Châu Thạnh 2, 3, 4, 5; 15 tề ở 5 ấp.
Trên sông có 1 tiểu pháo hạm, tàu nhỏ 20 chiếc, giang cảnh 20 chiếc.
Trong khi thực lực ta ở khu 2 có 40 người gồm: 3 đảng viên (2 hợp pháp, 1 thị xã ủy viên), 5 nòng cốt, 32 tích cực, cảm tình. Khu 3 có 82 người gồm: 10 đảng viên (5 hợp pháp, 5 bất hợp pháp), 6 nòng cốt, 63 tích cực, cảm tình, 1 tổ tự vệ mật (3 đồng chí).
Thực hiện chỉ đạo của tỉnh, Thị xã ủy củng cố tổ chức trở thành Ban cán sư, tập trung sức chống phá bình định, đề kế hoạch chuyển thế phong trào quần chúng ấp Châu Thới (khu 2) phường 2, 3, 5, (khu 3). Ấp điểm Châu Thới 3 từ loại 3 lên loại 2; Châu Thới 2 (khu 2), phường 4 đường Nguyễn Đình Chiểu (khu 3) từ loại 4 lên loại 2; ấp Châu Quới 1, Châu Quới 2, Châu Quới 3 (khu 2) từ loại trắng lên loại 4.
Những tháng cuối năm 1971, thực hiện chỉ đạo của Ban cán sự thị xã, chi bộ phát động phong trào quần chúng và vận động binh sĩ đấu tranh. Kết quả 2 lính công binh xé bích chương cổ động cho Thiệu trên lộ núi Sam - Châu Đốc, phòng vệ dân sự bỏ canh gác; quần chúng tín đồ Hòa Hảo, Cao Đài và các tầng lớp nhân dân nội ô nêu 16 khẩu hiệu (hình thức biểu tình) đứng về phía chủ phố chống địch đuổi nhà khiến chúng phải nhượng bộ.
Đặc biệt, sau cuộc bầu cử Hạ nghị viện Sài Gòn, tại xã Châu Phú liên tiếp có 5 cuộc biểu tình của học sinh, quần chúng lao động, tín đồ Cao Đài, Hòa Hảo, phật tử và binh sĩ tham gia, mỗi cuộc có hàng trăm người và kéo dài hơn 2 giờ, hô khẩu hiệu đòi Thiệu từ chức, Mỹ về nước.
Qua hoạt động và phong trào đấu tranh chống địch, chi bộ đã xây dựng được 10 cơ sở ở ấp Châu Thạnh 3 gồm 5 nòng cốt, 2 tích cực, 3 cảm tình. Trong số nòng cốt có 2 người sau thoát ly là Nguyễn Văn Cường, Nguyễn Văn Bền; 1 cơ sở được đưa vô căn cứ học tập giao nhiệm vụ. Ở ấp Châu Thới 2, chi bộ xây dựng được 3 tích cực, 2 cảm tình... Đồng thời, ta vô hiệu hóa toán trưởng phòng vệ dân sự tạo điều kiện cho cán bộ đột nhập vô khu vực này dễ dàng.
Sau đợt hưởng ứng cuộc tiến công chiến lược Xuân Hè 1972, quân giải phóng phá vỡ tuyến đồn bót ngăn chặn biên giới từ Bắc Châu Đốc đến Tân Châu, địch hết sức hoang mang, gấp rút phòng thủ, giới nghiêm trại lính, xây lắp công sự, tăng cường cảnh sát, Phượng hoàng tra xét nghiêm ngặt các đường thủy bộ, mở chiến dịch bắt hàng trăm quần chúng giam giữ ở Châu Đốc.
Tiếp theo đợt tấn công vùng điểm Tân Châu - An Phú của tỉnh, tinh thần địch ở thị xã càng hoang mang, hốt hoảng. Tỉnh trưởng Châu Đốc tăng cường phòng thủ thị xã, hàng đêm, tỉnh trưởng và nhiều sĩ quan, công chức đưa gia đình tản cư về Cái Dầu, Long Xuyên. Nhiều cảnh sát mang theo thường phục và tìm sẵn chỗ trốn phòng khi bị ta tấn công. Trong khi đó, bọn tay sai phản động trong giáo phái lại ra mặt hoạt động, ráo riết mộ lính. Ngược lại, một số đảng phái đối lập gặp cơ hội cũng công khai chống lại chính quyền có mức độ như ủng hộ học sinh chống đóng cửa trường, chống bắt lính...
Từ tình hình trên, chi bộ xã tiến hành vận động quần chúng đấu tranh. Một số chủ xe, chủ đò máy tự phát đình công 1 ngày chống tăng giá xăng và tiền bến. Ta lãnh đạo 200 chị em buôn bán, hàng trăm quán, bar đấu tranh chống địch tăng thuế môn bài từ 90 - 100%.
Cuối năm 1972, 6 ấp của xã Châu Phú có đảng viên, 3 ấp có cơ sở, 3 ấp trắng là Châu Quới 1, Châu Quới 2, Châu Quới 3 (khu 2).
Trước áp lực tấn công quân sự trên chiến trường miền Nam của lực lượng cách mạng, Mỹ buộc phải ký kết Hiệp định Paris về Việt Nam (27-1-1973), đã tạo sự chuyển biến lớn ở địa phương. Nhưng trên địa bàn tỉnh, huyện, địch không ngừng đánh phá, kềm kẹp nhân dân, thực hiện kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” bình định, lấn đất, giành dân. Chúng tăng cường bắt lính, liên tiếp mở các cuộc hành quân bao ráp bắt thanh niên trốn lính, đồng thời dung dưỡng, khuyến khích bọn tay sai đội lốt đạo Phật giáo Hòa Hảo phát triển bảo an quân, củng cố Ban trị sự ở xã, ấp.
Xuyên tạc Hiệp định Paris, chống chính phủ 3 thành phần, địch mở các buổi nói chuyện ở xã Châu Phú, tập hợp quần chúng buộc biểu tình qua các đường phố hô khẩu hiệu phản đối lập chính phủ 3 thành phần…
Tuy có khó khăn, nhưng ta đang đứng trước thuận lợi trong khí thế phấn khởi của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân khi có Hiệp định. Đẩy mạnh phong trào đấu tranh buộc địch phải thi hành Hiệp định, thực hiện chủ trương của thị xã, chi bộ Châu Phú phát động phong trào chính trị quần chúng nội ô, chủ yếu là thành phần lao động, học sinh và tín đồ đạo Phật giáo Hòa Hảo, gia đình binh sĩ nổi dậy chống địch theo khẩu hiệu trọng tâm và các quyền lợi thiết thân hàng ngày kết hợp với lực lượng vũ trang và an ninh trong ngoài phá kềm diệt ác, đánh đầu sỏ, phá hoại kho tàng gây hoang mang bọn bên trên làm lỏng rã bọn ở dưới. Xây dựng cơ sở cách mạng ghép thành tổ chức tập hợp lực lượng quần chúng giành quyền làm chủ ở nhiều mức độ, chú ý tranh thủ nắm trung gian chức sắc đạo để qui tụ tín đồ chống địch trước mắt và giành chính quyền khi có thời cơ.
Trọng điểm là giới mua bán, xe lôi, lao động, trường Thủ Khoa Nghĩa. Từ phong trào đấu tranh, ta chuyển thế làm chủ ấp, ngành, giới nhiều mức độ ấp ven Châu Thới. Lấp ấp, ngành, giới còn trắng: Châu Quới 1, Châu Thạnh 1, ngành giới: công chánh, khuân vác, xe lôi đạp, trường Thủ Khoa Nghĩa.
Đến tháng 6-1973, chi bộ xây dựng được 5 lõm nhân tâm (17 gia đình) ở ấp Châu Thạnh, Châu Thới 2.
Sau khi học tập Chỉ thị 03 và Công văn 934 (đưa dân bám về ruộng vườn cũ) của Trung ương Cục, Ban cán sự mạnh dạn chọn cán bộ có khả năng bám vô trong vì đã đánh giá được địch và tin tưởng vào quần chúng. Các đảng viên bám được ấp Châu Thới 2, Châu Thạnh 3, Châu Quới 1. Qua tranh thủ được toán phòng vệ dân sự từ trước và có quần chúng tốt giúp đỡ, cán bộ bám được trong dân, vận động tên trưởng ấp không làm tiền thanh niên trốn lính, nhờ đó 67 thanh niên không phải đóng tiền.
Ở ấp Châu Thới 2, cán bộ ta vận động tề và 2 tên ban 2 không lấy tiền của 60 thanh niên trốn lính (số này phải đóng 1.200 đồng/người, sau thông cáo chung không đóng tiền nữa). Một thanh niên lao động tòng quân vào lực lượng vũ trang, tình nguyện trở về bám địa bàn, gây dựng được 4 thanh niên, 1 phụ nữ, 1 tổ nòng cốt trong xe gắn máy và đã bám chặt trong nghiệp đoàn công khai, xây dựng 2, 3 chỗ ở cho cán bộ bất hợp pháp.
Ấp Châu Thạnh 3 (chu vi Cao Đài) móc nòng cốt về học tập cho 5 cơ sở. Tên trưởng ấp có dao động, ta tranh thủ được tên phó ấp (người Hoa), giao việc y khống chế 2 tên đầu hàng chỉ bắt cơ sở có kết quả; 2 cơ sở tranh thủ địch bắt nghe đài Hà Nội.
Ta còn vận động 31 kệ thịt ngưng bán 3 ngày để đấu tranh chống tăng thuế mỗi con heo lên 3.000 đồng.
Đến cuối năm 1973, xã Châu Phú có 18 đảng viên.
Năm 1974, Ban cán sự thị xã phân công cán bộ, đảng viên móc nối cơ sở trong xã tổ chức học tập. Đồng chí Ba Công, Vũ Sơn thâm nhập vào xã, củng cố lại các cơ sở cũ, tạo điều kiện thuận tiện cho bộ phận bên ngoài trở lại căn cứ B.2 (Cả Hàng, vùng biên giới Campuchia giáp ranh hậu xã Vĩnh Nguơn), căn cứ cách mạng của huyện Châu Phú và thị xã Châu đốc, chỉ đạo, quan hệ với bộ phận bên trong.
Trong quí I-1974, đảng viên xã đã được học tập nghị quyết của Trung ương Cục, nghị quyết bổ sung của Tỉnh ủy và kế hoạch mùa khô 1974. Qua học tập, cán bộ, đảng viên đều thấy rõ thắng lợi của ta và thất bại của địch. Từ đó, tăng thêm niềm tin vào Đảng, hiểu rõ bản chất hiếu chiến, phá hoại hòa bình của Mỹ - Thiệu.
Thực hiện yêu cầu, nhiệm vụ của Ban cán sự thị xã, trong 6 tháng đầu năm 1974, chi bộ Châu Phú đã đưa được phong trào đấu tranh của quần chúng lên một bước. Cụ thể: tranh thủ Ban đại diện học sinh trường Trung học Thủ Khoa Nghĩa can thiệp với Ban Giám hiệu trường hủy bỏ hình thức cấm túc, ghi học bạ 4 học sinh vi phạm kỷ luật và đòi trường phải sắm bàn ping pong cho học sinh giải trí, trường hứa sẽ giải quyết. Học sinh trường Thủ Khoa Nghĩa còn đấu tranh chống Hiệu trưởng tham nhũng. Hằng trăm quần chúng lao động đấu tranh chống chính quyền Châu Đốc đuổi nhà. Quần chúng giằng co với địch cả năm, từ đấu tranh lẻ tẻ đến tập trung, làm đơn trực tiếp gởi Hội đồng tỉnh, Vùng 4 chiến thuật, Tổng thống, Bộ thanh tra, vận động cả mẹ Ba Cụt can thiệp với Tỉnh trưởng... Hướng dẫn 5 vựa cá đấu tranh kéo dài buộc địch phải hạ thuế mỗi ký cá từ 30 đồng xuống còn 15 đồng y như cũ.
Song song, cán bộ xã nhân dịp Tết và Vía Bà còn tuyên truyền, giáo dục công khai trên 100 lính tại chỗ và các nơi khác đến về hòa bình, hòa hợp dân tộc, chống gây chiến, lấn chiếm. Thông qua cơ sở binh vận, đã giáo dục 2 gia đình sĩ quan và 4 lính; thông qua gia đình, vận động rã ngũ hơn 10 binh sĩ.
Chuẩn bị cho chiến dịch mùa khô 1974 - 1975 của tỉnh, lực lượng cách mạng ở ấp Châu Thới 1 có 1 nòng cốt, 3 tích cực; Châu Thới 2 có 1 đảng viên, 1 nòng cốt, 3 tích cực; Châu Thạnh 1 có 3 tích cực; Châu Thạnh 2 có 1 đảng viên; Châu Thạnh 3 có 4 tích cực; Châu Thạnh 5 có 2 đảng viên; Châu Quới 1 có 2 tích cực. Thực hiện nhiệm vụ của thị xã Châu Đốc, các đồng chí trong Ban cán sự: Nguyễn Thị Thanh, Lê Thị Tiểng, Nguyễn Thị Minh Tâm, cùng một số cán bộ như Đinh Kim Thúy (Hai Hiền), Châu Thị Lành (Dung)... đã bám được xã móc nối cơ sở tiến hành công tác binh vận, xây dựng lực lượng trong lòng địch, xây dựng cơ sở 3 mũi giáp công nhằm vào các điểm Châu Thạnh 1, Châu Thạnh 2.
Đồng chí Trần Tuấn, Thị đội trưởng, bố trí 2 chiến sĩ Nguyễn Văn Cường và Nguyễn Văn Bền vô xã vận động một số gia đình cơ sở ở Châu Thạnh 2 xây dựng lực lượng trong lòng địch chờ thời cơ hành động.
Tháng 4-1975, thực hiện kế hoạch của tỉnh giải phóng địa phương, trên địa bàn thị xã có thuận lợi là một bộ phận Ban cán sự thị xã đã bám được nội ô nắm tình hình từ trước, nên có cơ sở vững chắc, lực lượng quần chúng nòng cốt; binh vận nắm được phòng vệ dân sự ở Châu Thạnh 1, Châu Thạnh 2; một số trưởng ban ấp, cảnh sát cung cấp những tin tức chính xác.
Ngày 28-4-1975, tại nhà ông Phạm Văn, một cơ sở trung gian binh vận, đồng chí Lê Thị Tiểng tiếp cận, thuyết phục được Trung tá Nguyễn Kim Triều, Tiểu khu phó Châu Đốc kiêm Quận trưởng Châu Phú, chấp thuận nắm tình hình và thái độ của Tỉnh trưởng Châu Đốc, bọn chỉ huy tiểu khu, các phe phái... Đồng thời, Nguyễn Kim Triều thực hiện các việc: không được tử thủ khi quân giải phóng vào; hạ lệnh cho các thuộc cấp, binh lính dưới quyền không được bắn phá, cướp bóc của cải nhân dân; giữ đầy đủ tài liệu, súng đạn của quận Châu Phú để nộp cho cách mạng…
Trưa ngày 30-4-1975, nghe tin Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, địch ở thị xã bị tác động hoang mang tột độ. Ngay trưa hôm đó, một bộ phận Ban cán sự bán hợp pháp cấp tốc mở cuộc họp đánh giá tình hình: địch đang hoang mang sa sút, quần chúng đang phấn khởi và tin tưởng cách mạng và chủ trương phải cướp chính quyền bằng sức mạnh của quần chúng nổi dậy và tấn công binh vận.
Ngay trong đêm 30-4-1975, các đồng chí hoạt động nội ô đã vận động các gia đình cơ sở như Trịnh Thị Thảnh, Hai Lựa… may cờ, nắm tình hình, theo dõi phát hiện những tên chỉ điểm, ác ôn để khi ta vào giải phóng thị xã có biện pháp đối phó khống chế.
Sáng sớm ngày 1-5-1975, sĩ quan, binh lính và viên chức chính quyền địch ở thị xã suy sụp hoàn toàn. Bọn đội lốt tôn giáo cũng tự tan rã. Trên khắp đường phố súng ống, quân trang, quân dụng... vứt bừa bãi. Bộ phận Ban cán sự nội ô lãnh đạo cơ sở, lực lượng tại chỗ phát động quần chúng nổi dậy giải phóng hoàn toàn thị xã (xã Châu Phú). Trưa ngày 1-5-1975, đồng chí Nguyễn Văn Bảng (Tư Kỉnh), Bí thư Ban cán sự thị xã Châu Đốc, đọc lời kêu gọi với nội dung: các binh lính, sĩ quan buông súng đầu hàng và ra trình diện, quần chúng hãy cùng lực lượng cách mạng tiếp quản các nơi còn lại để cùng nhau ổn định xây dựng nước nhà.
Lực lượng mật nội ô chiếm Ty thông tin (nay là Thư viện thị xã) xây dựng nơi đây thành trụ sở ban đầu cho lực lượng giải phóng, phát loa kêu gọi binh lính địch đầu hàng. Ban chỉ huy quân sự thị xã đóng tại Hội đồng xã Châu Phú (nay là trụ sở phường Châu Phú A), là địa điểm tập trung lực lượng vũ trang, xe quân sự chạy trên đường phố theo lệnh của Thị đội Châu đốc. Nhờ vậy tình hình nhanh chóng được ổn định. Cơ sở cách mạng vận động nhân dân thị xã ủng hộ, tiếp tế lương thực, nấu cơm cho quân giải phóng và rầm rộ may cờ.
Đối phó với bảo an quân Hòa Hảo từ Cái Dầu kéo lên hòng chiếm lại Châu Đốc, bảo vệ nội ô được an toàn, ta bố trí lực lượng theo thế liên hoàn bao quanh thị xã, trong đó mỗi ấp đều có tổ vũ trang, trang bị từ 10 - 20 súng để bảo vệ trật tự. Đồng thời tuyển thêm thanh niên xây dựng một đại đội lưu động.
Sau khi xã Châu Phú được hoàn toàn giải phóng, chi bộ xã được hình thành, có 7 đảng viên do đồng chí Vũ Hồng Việt làm Bí thư. Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách của chi bộ là xây dựng bộ máy chính quyền ấp; nhanh chóng ổn định tình hình tư tưởng nhân dân, tuyên truyền, giải thích đường lối chính sách của Đảng và chính quyền cách mạng trong nhân dân, mặt khác thông qua các gia đình cách mạng, gia đình cơ sở nuôi chứa cách mạng trong kháng chiến làm công tác vận động, nhằm làm cho nhân dân thông hiểu chủ trương chính sách của cách mạng để họ yên tâm lao động sản xuất và sinh hoạt bình thường. Đồng thời tăng cường giữ vững an ninh trật tự, kêu gọi số người tham gia chế độ cũ ra trình diện và có biện pháp trừng trị số phần tử ngoan cố, tàng trữ vũ khí, hoạt động chống phá cách mạng.
Sau đó, Ủy ban nhân dân cách mạng được xây dựng đều khắp các ấp. Trên cơ sở đó, chính quyền xã được hình thành, đồng chí Huỳnh Công Lộc (Hai Lâu) làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng xã. Để ổn định bộ máy tổ chức, chi bộ tuyển chọn số người thuộc gia đình truyền thống cách mạng, quần chúng tốt vào phụ trách các ngành, đoàn thể, quân sự; vận động thanh niên tham gia lực lượng dân quân tự vệ giữ gìn an ninh, trật tự xã hội.
Trong không khí háo hức, phấn khởi những ngày đầu mới giải phóng, đông đảo quần chúng, nhất là tầng lớp thanh niên nhiệt tình tham gia hưởng ứng các phong trào hành động cách mạng như: ủng hộ lương thực, vận động người tham gia chế độ cũ ra trình diện, giao nộp vũ khí, giao nộp các loại sản phẩm văn hóa đồi trụy… Số binh lính, sĩ quan, công chức chế độ Sài Gòn ra trình diện là 1.791, bắt 120 tên lẫn trốn không trình diện, thu 2.689 khẩu súng các loại, có 2 khẩu pháo 105 ly; bắt giữ một số tên ác ôn, đầu hàng phản bội.
Đoàn thanh niên đã phát huy được vai trò tiên phong trong việc tập hợp thanh niên tham gia các phong trào bình dân học vụ, làm thủy lợi, học sinh làm công tác xã hội, tương thân tương ái, quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc...
Từ phong trào hành động cách mạng của quần chúng, chi bộ chọn ra những thành phần cốt cán bổ sung cho bộ máy chính quyền, đồng thời là nguồn lực bổ sung cho Đảng. Chi bộ đã kết nạp được 21 đảng viên.
CHƯƠNG III
PHƯỜNG CHÂU PHÚ A XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
(1976 - 2010)
I- CHÂU PHÚ A HÌNH THÀNH, XÂY DỰNG KINH TẾ XÃ HỘI, ỔN ĐỊNH ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN (1976 - 1985)
Sau khi lập lại tỉnh An Giang, tháng 2-1976, xã Châu Phú tách ra thành lập 2 xã Châu Phú A và Châu Phú B. Xã Châu Phú A gồm các ấp: Châu Thạnh 1, Châu Thạnh 2, Châu Thạnh 3, Châu Thạnh 4, Châu Thạnh 5, Châu Quới 1, Châu Quới 2, Châu Quới 3…
Trên địa bàn mới, chi bộ Châu Phú A được hình thành do đồng chí Vũ Hồng Việt làm Bí thư, đã tập trung giải quyết vấn đề ruộng đất, phát động phong trào “nhường cơm sẻ áo”, quy hoạch hệ thống thủy lợi, tăng diện tích lúa 2 vụ; xóa mù chữ, bài trừ tệ nạn xã hội; tuyên truyền trong nhân dân về ý nghĩa, mục đích và yêu cầu của việc bầu cử Quốc hội thống nhất cả nước (25-4-1976).
Nhằm ổn định xã hội, ổn định đời sống nhân dân, vì tình trạng kinh tế khó khăn, thị xã đưa một số Việt kiều hồi hương cùng người tại chỗ về vùng kinh tế mới để tăng gia sản xuất. Xã Châu Phú A đưa đi 453 người, nhưng một thời gian, điều kiện khó khăn, sống không nổi họ trốn trở về địa phương.
Phục vụ sản xuất nông nghiệp, nhân dân xã Châu Phú A đã cùng nhân dân thị xã tham gia phong trào thủy lợi, đào vét kinh mương, đắp đê… Riêng chi bộ, chính quyền đã huy động nhân dân trong xã đắp lộ Trường Đua dài 365m và đắp nền trường học cho ấp Châu Thới 2 với trên 2.900 lượt người.
Về thương nghiệp, các ấp trong xã tổ chức được 1 hợp tác xã mua bán nhằm đáp ứng yêu cầu của nhân dân.
Trong khí thế chung sau ngày giải phóng, nhiều hoạt động văn hóa văn nghệ được tổ chức. Xã lập được đội văn nghệ nghiệp dư của ấp.
Quan tâm chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, xã thành lập ban y tế và các ấp có tổ y tế thực hiện việc khám và chữa bệnh ban đầu cho nhân dân.
Trong lúc chi bộ, chính quyền xã cùng nhân dân ổn định trật tự xã hội, khôi phục sản xuất, thì quân Pôn Pốt tấn công vào các xã biên giới Tây Nam gây ra cuộc chiến tranh lấn chiếm (4-1977). Địa bàn Châu Phú A là trọng điểm địch bắn phá và đột nhập vào phá hoại. Do đó, chi bộ phải chuyển hướng nhiệm vụ cho phù hợp với tình hình thực tiễn là: một mặt, ra sức xây dựng lực lượng dân quân tự vệ đảm bảo yêu cầu chiến đấu tại chỗ, xây dựng tuyến phòng thủ bảo vệ biên giới, chủ động các phương án bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân. Mặt khác, duy trì sản xuất và trấn áp các tổ chức phản cách mạng.
Thời điểm này, truyền thống yêu nước của nhân dân được khơi dậy mạnh mẽ thông qua việc vận động thanh niên lên đường bảo vệ Tổ quốc; tổ chức bám trụ cùng bộ đội chủ lực chiến đấu, tham gia dân công hỏa tuyến, đóng góp nhân lực, chông, cọc xây dựng tuyến biên giới.
Đoàn thanh niên kết hợp các đoàn thể khác vận động nhân dân thành lập đội thanh niên xung kích làm nhiệm vụ cứu thương, tổ chức cứu giúp nhân dân ở những nơi bị thiệt hại do đạn pháo địch; thanh niên xung phong làm nghĩa vụ quốc tế. Đặc biệt, có 32 đoàn viên tích cực hưởng ứng đăng ký tình nguyện tham gia chiến đấu ở biên giới phía Bắc trong Tiểu đoàn An Giang 1.
Góp phần bảo vệ biên giới, lực lượng vũ trang xã được củng cố, tăng cường: ban chỉ huy xã đội có 2 đồng chí, du kích xã có 11 đồng chí, ban chỉ huy ấp đội 18 đồng chí, du kích ấp 57 đồng chí.
Lực lượng dân quân tự vệ và dân quân rộng rãi phát triển mạnh, có trên 1.000 người, trong đó có 1 đại đội được tăng cường bảo vệ biên giới, kết hợp với Thị đội, bộ đội chủ lực ngăn chặn kịp thời các vụ xâm nhập, đánh phá bằng vũ trang của địch; đồng thời tham gia làm nghĩa vụ quốc tế ở tỉnh Tà Keo và Cam pốt (Campuchia).
Nhằm giảm bớt thiệt hại do đạn pháo địch gây ra ở nội ô, thực hiện chỉ đạo của Thị ủy, xã đã xây dựng nhiều hầm trú ẩn dân dụng; sơ tán nhiều hộ dân xuống vùng Mỹ Đức, Khánh Hòa.
Ở nội địa, lực lượng công an xã, thị xã cùng với lực lượng tỉnh đã phá vỡ 4 tổ chức phản cách mạng (lực lượng dân quân kháng chiến chống Cộng, Dân quân phục quốc, Sư đoàn 5 Thanh Long và phản động chui vào nội bộ), bắt được nhiều tên cùng tài liệu phản động và vũ khí.
Về sản xuất, tháng 8-1977, mặc dù tình hình chiến tranh biên giới vẫn còn căng thẳng, nhưng để đảm bảo cuộc sống, đồng bào sơ tán đã trở về địa phương lao động sản xuất, chăm sóc thu hoạch lúa hè thu. Thực hiện chủ trương hợp tác hóa nông nghiệp của trên, xã đã lập các tổ đoàn kết sản xuất để dần dần hình thành tập đoàn sản xuất nông nghiệp, thực hiện điều chỉnh, chia cấp ruộng đất cho những người không đất sản xuất trên tinh thần đoàn kết, tương trợ.
Năm 1978, lũ lụt nặng đã làm lúa mùa thất trắng, nhân dân trong xã phải lâm vào cảnh đói khổ, phải ăn độn khoai, bo bo. Tuy có khó khăn về thiên tai lũ lụt, thiếu thốn vật tư phục vụ sản xuất, chiến tranh biên giới…, nhưng chi bộ lãnh đạo nhân dân khắc phục khó khăn khôi phục sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, xây dựng chi bộ, chính quyền, đoàn thể vững mạnh, ổn định trật tự trị an, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng.
Năm 1978, Đại hội chi bộ xã Châu Phú A lần thứ I được tổ chức. Đại hội bầu ra Ban Chi ủy gồm 5 đồng chí, đồng chí Dương Thị Nhân được bầu làm Bí thư chi bộ.
Trong năm 1978, thực hiện Nghị quyết của Đại hội, chi bộ lãnh đạo nhân dân cố gắng vượt qua khó khăn, thử thách, đã đạt kết quả:
Sản xuất nông nghiệp, xã đã mở rộng diện tích tăng vụ lên 632 ha. Bên cạnh đẩy mạnh công tác cải tạo, xây dựng và nâng chất các tổ đoàn kết sản xuất, tập đoàn sản xuất, làm cơ sở đi lên hợp tác hóa nông nghiệp. Xã có 4 tổ đoàn kết sản xuất gồm 936 hộ (7.781 nhân khẩu), canh tác trên diện tích 596,6 ha.
Tiến hành và hoàn thành hệ thống thủy lợi đảm bảo tưới tiêu cho lúa 2 vụ. Trong năm, xã đào mới và tu sửa 18 công trình tiêu thủy nông, chiều dài 11.313m với 28.578m3 đất; đắp đập cầu Trường Đua trong vòng 6 ngày và tu sửa đê ngăn lũ tháng 8.
Tuy hạn hán, sâu rầy, lũ lụt ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng lương thực, nhưng công tác thu mua lương thực tương đối đạt yêu cầu của trên. Thông qua ngày hội giao lương, xã đã thu mua 395.858kg, đạt chỉ tiêu lương thực trên giao.
Xã làm tốt công tác xây dựng lực lượng dân quân, tham gia bám giữ tuyến đầu biên giới. Đội du kích xã có từ 30 đến 75 quân, mỗi ấp có 1 đội du kích từ 14 chiến sĩ trở lên. Xã cơ bản hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng lực lượng giao về trên làm nghĩa vụ quốc tế. Trong năm, đã giao về trên 257 thanh niên thi hành nghĩa vụ quân sự, đạt chỉ tiêu trên giao, gom quân bỏ ngũ được 98 quân nhân.
Tiếp tục góp phần bảo vệ biên giới, xã huy động 7.479 lượt quần chúng tham gia làm tuyến rào xã chiến đấu với chiều dài 3.795m, sửa chữa lại 3.039m. Riêng kinh đê biên giới thực hiện trong tháng 2-1979, hoàn thành tốt công tác trên giao; huy động 16.436 lượt quần chúng tham gia đào đấp được 582m kinh đê.
Mặc dù trong năm, tình hình an ninh nội địa khá phức tạp, ảnh hưởng chiến tranh biên giới, bọn phản cách mạng còn ẩn núp trong nhân dân, lợi dụng sự sơ hở của cán bộ ta để tuyên truyền, xuyên tạc chống phá cách mạng. Chi bộ kịp thời chỉ đạo chính quyền kết hợp các đoàn thể truy quét các đối tượng chính trị và hình sự, đã bắt giữ 15 đối tượng chính trị, 259 đối tượng hình sự.
Về văn hóa, xã phổ biến kịp thời, nhanh chóng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ra nhân dân.
Thực hiện chính sách đền ơn đáp nghĩa, xã giải quyết tốt các thủ tục hồ sơ cho các gia đình thương binh liệt sĩ, kết hợp chặt với chính quyền và các đoàn thể cứu trợ những gia đình khó khăn trong mùa nước lũ.
Công tác y tế phục vụ đạt yêu cầu và kịp thời chăm sóc sức khỏe nhân dân, thực hiện tốt chức năng người thầy thuốc trong việc điều trị bệnh cho nhân dân.
Chính quyền từ xã đến ấp thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước như phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, thi hành nghĩa vụ quân sự, xây dựng lực lượng dân quân, thể hiện tốt vai trò điều hành, quản lý xã hội.
Thực hiện tốt công tác vận động quần chúng, Mặt trận và các đoàn thể thể hiện tích cực trong việc tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia các phong trào cách mạng. Xã Châu Phú A là trung tâm đô thị, phần lớn người dân chuyên kinh doanh, mua bán nhưng có ý thức cách mạng tốt, khi được xã vận động là mọi người nhiệt tình ủng hộ.
Nông hội phát huy vai trò nòng cốt trong phong trào sản xuất, đẩy mạnh công tác cải tạo nông nghiệp, tập hợp được đại đa số nông dân và các tổ đoàn kết sản xuất, nhằm từng bước xây dựng hợp tác xã nông nghiệp. Trong năm, Nông hội phát triển được 133 hội viên.
Đoàn thanh niên đẩy mạnh công tác củng cố, xây dựng tổ chức đoàn và hội; phát huy mạnh mẽ phong trào 3 xung kích làm chủ tập thể của thanh niên, dấy lên phong trào thanh niên tham gia sôi nổi vào lao động sản xuất, thi hành nghĩa vụ quân sự… Qua đó trong năm, Đoàn thanh niên phát triển 28 đoàn viên, trong đó có 6 nữ.
Hội Liên hiệp phụ nữ tăng cường công tác chính trị tư tưởng trong hội viên, làm cốt cho các phong trào: thi hành nghĩa vụ quân sự, lao động sản xuất…
Công tác xây dựng Đảng, chi bộ duy trì hội nghị thường xuyên. Trong sinh hoạt, chi bộ quan tâm và đẩy mạnh công tác tự phê bình trong Đảng, tăng cường đoàn kết thống nhất cao trong nội bộ, ra sức thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị địa phương.
Ngày 25-4-1979, theo quyết định của Hội đồng Chính phủ, xã Châu Phú A chuyển thành phường Châu Phú A thuộc thị xã Châu Đốc.
Năm 1981, Đại hội chi bộ phường Châu Phú A lần thứ II nhiệm kỳ 1981 - 1982 được tổ chức, đồng chí Dương Thị Nhân được tái đắc cử Bí thư chi bộ. Từ Đại hội nhiệm kỳ III (1982 - 1983), nhiệm kỳ IV (1983 - 1984), nhiệm kỳ V (1985 - 1986), đồng chí Phạm Văn Công làm Bí thư chi bộ.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội, phường tập trung sản xuất nông nghiệp. Từ khi phường thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động, đã tạo sự phấn khởi trong tầng lớp nông dân. Tình hình sản xuất chuyển biến đáng kể, năng suất, sản lượng không ngừng tăng lên từ 8 - 9 tấn/ha lên 10,5 tấn rồi 11,5 tấn/ha. Trong giai đoạn này, tập đoàn sản xuất nông nghiệp số 1 phường được Nhà nước tuyên dương “Đơn vị Anh hùng”. Nhiều nơi khác đến học tập cách thức quản lý, điều hành sản xuất. Đến năm 1984, phong trào hợp tác hóa tiến lên qui mô liên tập đoàn để thống nhất điều hành, quản lý sản xuất.
Về cải tạo nông nghiệp, từ mô hình thử nghiệm 2 tập đoàn sản xuất nông nghiệp, năm 1981, phường thành lập thêm 1 tập đoàn sản xuất. Đến năm 1982, thành lập thêm 3 tập đoàn sản xuất, nâng số tập đoàn của phường lên 6 tập đoàn sản xuất, đưa 100% hộ nông dân vào làm ăn tập thể với toàn bộ diện tích 306 ha. Tuy nhiên, phương thức sản xuất chưa phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất, còn nặng về hình thức và bắt buộc, việc quản lý lỏng lẻo dẫn đến nhiều cán bộ tập đoàn tham ô, làm thất thoát tài sản chung, hiệu quả sản xuất thấp, nông dân không thiết tha với đồng ruộng, lòng tin của nhân dân bị giảm sút.
Về thương nghiệp, năm 1981 phường thành lập hợp tác xã mua bán từ nguồn vốn cổ phần do nhân dân đóng góp và ngân sách đầu tư. Mạng lưới thương nghiệp được mở rộng gồm 28 cửa hàng, hoạt động khá tốt phục vụ nhu cầu của nhân dân. Ngoài ra, phường còn có các hợp tác xã chuyên ngành như hợp tác xã mua bán cá, mua bán rau quả, nhưng được một thời gian thì giải thể vì hoạt động không hiệu quả.
Tuy nhiên, hợp tác xã còn thực hiện theo lối kinh doanh đường dài, chưa đi đúng chức năng nắm và thu mua hết nguồn hàng địa phương như các loại rau quả tươi sống, nông sản mà chỉ chạy theo lợi nhuận.
Nhìn chung, trong 9 năm từ khi thành lập xã rồi lên phường, chi bộ đã lãnh đạo nhân dân phấn đấu vượt qua những khó khăn buổi đầu vừa sản xuất, vừa chiến đấu bảo vệ biên giới, để từng bước xây dựng và phát triển trên các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực nông nghiệp. Sản xuất có chuyển biến từ 1 vụ lúa mùa nổi lên 2 vụ, sản lượng không ngừng tăng lên. Đời sống nhân dân bước đầu được ổn định. Tuy nhiên, lĩnh vực công nghiệp, thương nghiệp chưa được chú trọng phát triển do có khó khăn về vật tư, nguyên liệu, về cơ chế chính sách, một mặt do nhận thức địa phương còn hạn chế chỉ tập trung cho sản xuất nông nghiệp.
II- PHƯỜNG CHÂU PHÚ A THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG (1986 - 2000)
1- Giai đoạn 1986 - 2000
Tháng 1-1986, phường Châu Phú A tổ chức Đại hội chi bộ lên Đảng bộ phường lần thứ VI nhiệm kỳ 1986 - 1987. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 9 đồng chí, đồng chí Phạm Văn Công được tái đắc cử Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Ba - Phó Bí thư, Đường Văn Xường - Ủy viên Thường vụ, Đoàn Thị Ngọc, Lê Thị Phiến, Nguyễn Thị Yến, Nhâm Quí Lục, Trần Văn Cần, Phạm Tấn Tài.
Thực hiện Nghị quyết của Đại hội gắn với thực hiện Nghị quyết 32, 34 của Thị ủy và tinh thần chủ trương 3 chương trình kinh tế lớn là lương thực - thực phẩm - hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, phường đề ra nhiều biện pháp tổ chức làm cho sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chuyển biến tích cực, đồng thời chủ động phát triển các ngành nghề như: da thuộc xuất khẩu, gạch nung, sản phẩm gia dụng bằng nhựa tái sinh… Các cơ sở sản xuất của hợp tác xã mua bán đã nâng cao năng lực sản xuất cùng với các cơ sở sản xuất cá thể đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cho xã hội, giải quyết việc làm cho người lao động.
Sản xuất nông nghiệp, từ khoán sản phẩm chuyển sang khoán hộ theo Chỉ thị 10 của Bộ Chính trị. Liên tập đoàn chuyển sang hoạt động dịch vụ kỹ thuật, lấy hiệu quả kinh tế từ các hoạt động cung ứng vật tư, thủy nông, cày xới... và tự định đoạt sản phẩm nông dân làm ra. Bộ máy quản lý gọn nhẹ, chi phí sản xuất thấp, giúp cho nông dân tăng dần thu nhập. Từ đó, nông dân phấn khởi, gắn bó với ruộng đồng.
Việc thực hiện theo Quyết định 303 và Chỉ thị 22 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc điều chỉnh ruộng đất, tiến hành giao đất ruộng cho nông dân trực tiếp canh tác… đã tạo phấn khởi, tăng thêm niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước, nhưng đồng thời phát sinh về tranh chấp ruộng đất giữa chủ cũ và chủ mới. Phường đã tổ chức hòa giải tranh chấp, những mâu thuẫn nội bộ nông dân, giữ vững ổn định sản xuất, nhằm đưa nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa.
Công tác giáo dục, phường đã thực hiện phổ cập cấp I trong nhân dân.
Theo tinh thần Nghị quyết năm 1987 của tỉnh, Đảng ủy tiến hành xây dựng phường là cấp có kế hoạch, ngân sách và đã tự lực được ngân sách, có vốn chi xây dựng khá.
Công tác vận động quần chúng, phường chủ trương tuyên truyền, vận động nhân dân bỏ vốn đầu tư sản xuất, khắc phục những mặt trì trệ, yếu kém trong quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa, từng bước hình thành quan hệ sản xuất phù hợp qui luật khách quan nhằm thúc đẩy sản xuất trên lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp.
Phát huy mạnh mẽ phong trào quần chúng tự quản về an ninh trật tự, phường chuyển các ban khóm thành ban nhân dân tự quản theo quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh. Từ đó, nâng ý thức trong nhân dân, phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc được khơi dậy mạnh và đạt hiệu quả cao.
Đảng ủy phường tổ chức thực hiện tốt Chỉ thị 01 của Ban Bí thư và Nghị quyết 04 của Bộ Chính trị về cuộc vận động làm trong sạch, nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng và bộ máy Nhà nước, đồng thời kết hợp với công tác kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng. Từ đó, sức chiến đấu của đảng viên và năng lực lãnh đạo của các chi bộ không ngừng nâng cao, lòng tin của quần chúng được củng cố.
Công tác tổ chức, Đảng bộ có 7 chi bộ trực thuộc, trong nhiệm kỳ đã phát triển được 28 đảng viên.
Năm 1989, Đại hội Đảng bộ phường lần thứ VII nhiệm kỳ 1989 - 1991 được tổ chức. Đồng chí Phạm Văn Công tái đắc cử Bí thư, sau đó đồng chí Phạm Tấn Tài thay làm Bí thư. Đến tháng 10-1990, đồng chí Nguyễn Hoài Bắc được quyết định giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy.
Thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ lần thứ VII và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thị xã Châu Đốc lần thứ V, hơn 2 năm, dù gặp nhiều khó khăn nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy với những chủ trương và biện pháp thích hợp, toàn Đảng bộ và nhân dân Châu Phú A đã nỗ lực phấn đấu, tạo được sự chuyển biến tích cực trên các lĩnh vực.
Sản xuất nông nghiệp, do có nhiều biện pháp đồng bộ cùng với thực hiện phương thức hoạt động dịch vụ của liên tập đoàn đã tạo động lực cho nông dân gắn bó với đồng ruộng. Trong 2 năm (1990 - 1991), phường đã nạo vét 3.500m kinh nội đồng và đầu mối, tu sửa 4 công trình thủy lợi vừa và nhỏ với kinh phí 8,8 triệu đồng. Về vật tư, liên tập đoàn đã cung ứng cho nông dân khoảng 40% lượng phân bón và thuốc trừ sâu cho nhu cầu sản xuất ở mỗi vụ. Chương trình khuyến nông được thực hiện thường xuyên thông qua tổ nông dân sản xuất giỏi của Hội Nông dân phường. Bước đầu đã trang bị cho nông dân những kiến thức cần thiết trong việc sử dụng giống mới, phòng trừ sâu bệnh cho cây trồng.
Đảm bảo cho nông dân ổn định sản xuất, phường đã tiến hành đo đạc và thực hiện xong cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Qua đó, tư tưởng nông dân được yên tâm, sản xuất và năng suất được giữ vững. Năm 1990, sản lượng đạt 3.622 tấn, nhưng năm 1991 do dịch rầy nâu nên sản lượng chỉ đạt 3.244 tấn.
Thu ngân sách, phường đảm bảo chỉ tiêu trên giao và cân đối cho những yêu cầu chi thường xuyên. Năm 1989 và 1990, tổng thu ngân sách 926,90 triệu đồng, vượt 45% chỉ tiêu thu ngân sách; tổng chi 861,2 triệu đồng. Nguồn thu chủ yếu từ lệ phí đò, điều tiết thuế công thương nghiệp, thuế nông nghiệp và thu từ dịch vụ nhà khách. Về chi, hàng năm đầu tư cho xây dựng cơ bản từ 25 - 30% thu ngân sách để xây dựng và sửa chữa các công trình sự nghiệp giáo dục, y tế và những công trình phục vụ cho sản xuất và đời sống nhân dân.
Thực hiện chính sách xã hội, phường đã có một số mặt tiến bộ trong việc chăm lo, giải quyết những khó khăn trong đời sống nhân dân và đối tượng chính sách thông qua hoạt động của Quỹ bảo trợ xã hội và Quỹ tín dụng tình thương. Phường đã cấp 13,5 triệu đồng cất mới và sửa chữa 13 căn nhà tình nghĩa. Quỹ bảo trợ xã hội cất mới, sửa chữa 34 căn nhà cho nhân dân lao động nghèo, trợ cấp thường xuyên cho 7 trẻ mồ côi, 34 cụ già neo đơn, không nơi nương tựa, giúp đỡ 535 trường hợp hộ nghèo khó khăn và cho 242 hộ vay vốn sản xuất.
Về giáo dục, phường nâng cấp và cất mới 17 phòng học, trị giá trên 100 triệu đồng, dứt điểm tình trạng học ca ba. Đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu giảng dạy. Tuy nhiên, hàng năm số lượng học sinh nghỉ học ngày càng nhiều, nguyên nhân hầu hết do điều kiện kinh tế gia đình khó khăn. Do đó, Đoàn Thanh niên phường đã tiến hành khảo sát và đề xuất Quỹ bảo trợ xã hội hỗ trợ trên 1,5 triệu đồng mua tập, viết cấp cho 186 đối tượng học sinh nghèo, trẻ em không có điều kiện đến trường. Đồng thời, ngân sách Nhà nước và Quỹ bảo trợ xã hội đã tổ chức các lớp học tình thương để phổ cập cấp I và xóa mù chữ cho các em. Đã tổ chức 4 lớp gồm 184 học viên.
Trạm y tế thực hiện tốt các chương trình y tế cộng đồng như tiêm chủng mở rộng, chăm sóc sức khỏe ban đầu, phòng ngừa dịch bệnh… Hơn 2 năm, trạm đã tiêm chủng mở rộng cho 210 cháu đủ liều, có 2.250 lượt người đăng ký thực hiện các biện pháp kế hoạch hóa dân số, góp phần giảm tỷ lệ tăng dân số là 1,7% (1990). Riêng Hội y học dân tộc và Chữ thập đỏ đã tổ chức 3 đợt khám và điều trị bệnh miễn phí cho trên 20.000 lượt người. Riêng trong mùa lũ, đã tổ chức khám bệnh, phát thuốc miễn phí với kinh phí trên 1,4 triệu đồng, cấp trên 1 tấn gạo cho những hộ thiếu đói.
Văn hóa thông tin tổ chức nhiều đợt thông tin lưu động tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tổ chức 6 đêm văn nghệ, 4 trận thi đấu bóng chuyền, 2 lần chạy đua vũ trang phục vụ cho nhân dân trong những ngày lễ kỷ niệm lớn của dân tộc. Phường kết hợp với ngành chức năng kiểm tra thu giữ 128 băng cassette và 79 băng ghi hình mang nội dung xấu.
Những công trình phúc lợi công cộng phục vụ lợi ích nhân dân được chú trọng hơn. Phường xây dựng 5 bồn nước công cộng phục vụ nước sinh hoạt, tu sửa, đổ đất và trải cát 8 tuyến lộ liên khóm dài trên 4.000m, kinh phí 16 triệu đồng. Đầu tư thực hiện, hoàn thành công trình mở rộng mặt bằng chợ cá, kinh phí 414 triệu đồng.
Đời sống nhân dân được nâng lên, có 34,2% hộ khá, 56% hộ trung bình, 19,7% hộ nghèo. Một bộ phận nhân dân có mức thu nhập ổn định, xây dựng nhà khang trang và mua sắm nhiều phương tiện cho sinh hoạt như xe gắn máy, ti vi…
An ninh quốc phòng, cùng với việc chuyển các ban nhân dân khóm thành ban nhân dân tự quản, phường đã xây dựng được mô hình mới trong việc bảo vệ trật tự an toàn xã hội, nhất là trong việc phòng ngừa và tấn công tội phạm theo Chỉ thị 135 của Hội đồng Bộ trưởng, Hơn 2 năm, công an phường cùng các tổ chức an ninh trật tự cơ sở, đấu tranh và làm rõ nhiều vụ phạm pháp hình sự, hạn chế những tệ nạn xã hội trên địa bàn, mức độ phạm pháp hình sự giảm nhiều so với trước. Bên cạnh, phong trào quần chúng tích cực tham gia bảo vệ an ninh trật tự mạnh mẽ, cung cấp thông tin và vận động 8 đối tượng phạm pháp ra tự thú; tham gia cảm hóa những đối tượng cải tạo tại chỗ. Thông qua phong trào, nổi lên nhiều cá nhân và đơn vị điển hình trong việc bảo vệ an ninh trật tự như Đội dân phòng khóm 5, Ban nhân dân tự quản khóm 1… Phong trào nhân dân tự quản của phường được báo cáo điển hình toàn quốc, được Bộ Nội vụ tặng bằng khen và công nhận đơn vị khá nhất.
Công tác chống buôn lậu kết hợp với việc thực hiện qui chế biên giới được tổ chức với nhiều biện pháp đồng bộ, phát hiện và bắt giữ nhiều vụ vận chuyển hàng lậu giao về trên. Thực hiện Nghị quyết 02 của Bộ Chính trị về vận hành cơ chế, Đảng ủy đã tổ chức tốt cuộc diễn tập chuyển từ thời bình sang thời chiến với sự tham gia của nhiều lực lượng quần chúng.
Công tác củng cố và xây dựng lực lượng dân quân tự vệ được chủ động thực hiện thường xuyên. Hàng năm, phường đều tổ chức huấn luyện để nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu. Thực hiện Nghị quyết 02 của Bộ Chính trị, Đảng ủy trực tiếp xây dựng lực lượng tập trung. Bằng nguồn quỹ quốc phòng tại chỗ, đã đảm bảo tự lực và tích lũy, trang bị nhiều cơ sở vật chất cho đơn vị.
Công tác gọi thanh niên nhập ngũ hàng năm đều đạt chỉ tiêu trên giao, giữ vững thành tích 15 năm liền.
Công tác vận động quần chúng, tuy diễn biến phức tạp của tình hình thế giới đã ảnh hưởng đến tâm trạng của một bộ phận quần chúng, nhưng các chủ trương, chính sách đổi mới kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước được triển khai thực hiện, đã tác động sản xuất phát triển, tạo được không khí dân chủ, thoải mái trong việc làm ăn, buôn bán của nhân dân, góp phần khôi phục lòng tin của quần chúng vào sự nghiệp đổi mới của Đảng.
Ủy ban Mặt trận trong hơn 2 năm đã vận động đưa vào Quỹ bảo trợ xã hội trên 74 triệu đồng, giúp cho nhiều trường hợp hộ nghèo khó khăn và đối tượng chính sách trên 42 triệu đồng. Bên cạnh, Mặt trận còn thực hiện tốt chính sách đoàn kết tôn giáo, dân tộc của Đảng.
Hội nông dân có nhiều hoạt động tích cực phục vụ việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, thông qua hoạt động của tổ nông dân sản xuất giỏi, các chương trình khuyến nông, những kinh nghiệm trong sản xuất…, đồng thời có nhiều hoạt động thiết thực vận động tương trợ trong nội bộ nông dân và giúp vốn sản xuất.
Hội Liên hiệp phụ nữ thực hiện hiệu quả 2 cuộc vận động lớn của Hội là giúp nhau làm kinh tế gia đình và nuôi dạy con tốt. Hội còn giúp đỡ cho nhiều chị em gặp khó khăn và trẻ em suy dinh dưỡng, đồng thời tham gia tích cực vào chương trình kế hoạch hóa dân số.
Đoàn Thanh niên tổ chức nhiều loại hình sinh hoạt phục vụ các yêu cầu nhiệm vụ chính trị như: vận động thanh niên nhập ngũ, phát động thanh niên chống buôn lậu, chăm sóc trẻ mồ côi, tham gia cất nhà tình nghĩa, tổ chức các lớp học tình thương cho trẻ em không có điều kiện đến trường. Phong trào đoàn viên thanh niên trong trường học đã góp phần tích cực nâng cao chất lượng giáo dục.
Hoạt động của Hội y học dân tộc và Chữ thập đỏ có chuyển hướng chăm sóc sức khỏe nhân dân ở vùng ven., tổ chức nhiều đợt khám bệnh, phát thuốc miễn phí cho nhân dân các khóm 7, khóm 8 và những khóm có nhân dân lao động nghèo.
Hội Cựu chiến binh thường xuyên gặp gỡ, trao đổi với các hội viên trong việc gương mẫu thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Hoạt động của Đại biểu Hội đồng nhân dân phường trong 2 năm có chuyển biến khá rõ thông qua Ban thư ký điều hành hoạt động. Những kiến nghị chính đáng của cử tri được thực hiện tương đối kịp thời. Các kỳ họp được duy trì đúng quy chế.
Hiệu lực quản lý Nhà nước của Ủy ban nhân dân phường ngày càng chuyển biến khá rõ về chất, đáp ứng yêu cầu chăm lo và tạo điều kiện phát triển trên lĩnh vực kinh tế - xã hội và giữ vững kỷ cương xã hội.
Phường đã có nhiều cố gắng xác minh, giải quyết những đơn khiếu nại, tranh chấp dân sự. Bước xử lý hòa giải đảm bảo nhanh chóng và nghiêm minh, hạn chế nhiều trường hợp tồn đọng đơn thư khiếu nại, tranh chấp.
Trong tình hình thế giới diễn biến phức tạp, công tác chính trị tư tưởng được Đảng ủy đặc biệt quan tâm và tập trung chỉ đạo. Ngoài việc sinh hoạt, thông tin tình hình ở chi bộ, Đảng ủy còn tổ chức sinh hoạt, học tập, quán triệt các Nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh ủy, Thị ủy trong toàn Đảng bộ; những thông tin nhanh của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, nhằm giải quyết những vướng mắc về tư tưởng, tâm trạng, đồng thời nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên tin tưởng vào công cuộc đổi mới của Đảng.
Trong phong cách lãnh đạo, Đảng ủy luôn coi trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Đó là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất, chỉ đạo mọi hoạt động, tổ chức, sinh hoạt và phong cách làm việc. Những chủ trương, nghị quyết của Đảng ủy đề ra thực sự là sản phẩm trí tuệ của tập thể và được thực hiện một cách nhất quán, thể hiện sự thống nhất cao về chính trị và tư tưởng, đoàn kết nội bộ được giữ vững.
Đảng ủy thường xuyên chú trọng nâng cao lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin cho cán bộ, đảng viên. Hơn 2 năm, Đảng ủy đã đưa 4 đảng viên đi học lớp trung cấp lý luận chính trị, 42 đảng viên học sơ cấp lý luận và 32 đoàn viên ưu tú học lớp bồi dưỡng đối tượng Đảng.
Công tác tổ chức cán bộ kịp thời điều chỉnh theo yêu cầu nhiệm vụ. Trong nhiệm kỳ có sự thay đổi lớn trong Ban Chấp hành, bổ sung 4 đảng ủy viên, chuyển công tác về trên 2 đảng ủy viên. Do điều kiện và yêu cầu nhiệm vụ, Đảng ủy giải thể chi bộ Công ty sản xuất kinh doanh, thành lập 1 chi bộ mới, bổ nhiệm 3 bí thư chi bộ.
Công tác phát triển Đảng có chuyển biến, chú trọng chất lượng và có hướng quy hoạch cụ thể. Trong 2 năm, Đảng ủy kết nạp 7 đảng viên mới.
Thông qua các mặt hoạt động và kết quả công tác ở cơ sở, công tác kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng được tổ chức chặt chẽ, có 94,4% đảng viên trong toàn Đảng bộ được công nhận chấp hành tốt, Đảng bộ được Thị ủy công nhận Đảng bộ vững mạnh.
Trong nhiệm kỳ có 2 đảng ủy viên bị khai trừ ra khỏi Đảng do những sai lầm trong hoạt động kinh tế, cách chức 2 bí thư Đảng ủy sai phạm trong lối sống và tác phong sinh hoạt. Đề nghị về trên kỷ luật 10 trường hợp khai trừ, 1 trường hợp xin ra khỏi Đảng và cảnh cáo 1 đảng viên bỏ sinh hoạt Đảng.
Trong quá trình lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, Đảng bộ còn những mặt hạn chế như: sản xuất nông nghiệp chưa có hướng quy hoạch hệ thống giao thông nội đồng nên chi phí sản xuất của những hộ nông dân khu vực phía trong còn cao. Cuộc vận động kế hoạch hóa dân số chưa thường xuyên, liên tục, nhất là ở khóm 7 và khóm 8 nên giảm tỷ lệ tăng dân số chưa đạt yêu cầu. Nguồn thông tin đáp ứng yêu cầu của nhân dân còn hạn chế do hệ thống loa công cộng chưa mắc đều khắp, nhất là vùng ven. Một số chi bộ chưa chú trọng công tác vận động quần chúng nên tổ chức và hoạt động của các đoàn thể ở khóm chưa thật sự đủ mạnh, hạn chế sức thu hút quần chúng, thậm chí có nơi không hoạt động. Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa thấy trách nhiệm vận động quần chúng là nhiệm vụ thường xuyên nên ít tiếp xúc với quần chúng và hạn chế năng lực vận động quần chúng. Công tác tư tưởng ít chú trọng giáo dục lý tưởng cho đảng viên trẻ, dẫn đến một bộ phận đảng viên trẻ giảm sút ý chí chiến đấu, ít chịu rèn luyện, học tập để nâng cao năng lực. Công tác quản lý cán bộ còn lỏng lẻo, đấu tranh xây dựng nội bộ thiếu kiên quyết nên trong nhiệm kỳ có nhiều trường hợp đảng viên vi phạm khuyết điểm trong lối sống, sinh hoạt…
Ngày 22-11-1991, Đại hội Đảng bộ phường lần thứ VIII nhiệm kỳ 1991 - 1993 được tổ chức, có 97 đảng viên (1 dự bị) dự. Đại hội đã thông qua báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ khóa VII và đề ra mục tiêu tổng quát đến năm 1993 là: tiếp tục ổn định về chính trị trên cơ sở ổn định về kinh tế - xã hội, trước hết là đẩy mạnh phát triển sản xuất nhằm cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân.
Các nhiệm vụ chủ yếu:
- Tiếp tục đầu tư chiều sâu cho sản xuất nông nghiệp, bảo đảm năng suất và sản lượng cây trồng, vận động những người có tay nghề, nguồn vốn đầu tư, phát triển ngành nghề, giải quyết việc làm cho người lao động.
- Thông qua ngân sách tài trợ để xây dựng các công trình phúc lợi xã hội, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, đáp ứng nhu cầu đi lại, học hành, trị bệnh, hưởng thụ văn hóa…
- Nâng cao chất lượng mô hình phong trào quần chúng tự quản, bảo vệ, ổn định tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn phường, kết hợp với tuyến phòng thủ biên giới.
- Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước và pháp chế XHCN, xây dựng cho mọi người có ý thức “Sống, làm việc theo hiến pháp và pháp luật”.
- Kiện toàn tổ chức các đoàn thể quần chúng và tổ chức xã hội, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động phù hợp với tình hình hiện nay.
- Tiếp tục củng cố làm trong sạch nội bộ Đảng, nâng cao năng lực và chất lượng lãnh đạo của Đảng bộ trên các lĩnh vực, đảm bảo thống nhất về chính trị và tư tưởng trong toàn Đảng bộ.
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành gồm 9 đồng chí: Nguyễn Hoài Bắc, Huỳnh Văn Hiếu, Lê Văn Lộc, Đỗ Thành Nam, Chung Văn Phú, Huỳnh Thị Ngọc Trân, Trần Văn Xây, Đường Văn Xường và Nguyễn Văn Xương; bầu Ban Thường vụ gồm 3 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Hoài Bắc được tái đắc cử Bí thư, đồng chí Chung Văn Phú, Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường, đồng chí Đường Văn Xường - Ủy viên Thường vụ.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII, Đảng bộ phường lãnh đạo nhân dân phấn đấu khắc phục khó khăn đạt được những thành tựu quan trọng.
Trên cơ sở sử dụng ruộng đất đã ổn định, với phương châm khai thác tối đa hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp, phường đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, đưa năng suất bình quân tăng từ 10,5 tấn/ha (1991) lên 10,8 tấn/ha (1992), rồi 11,5 tấn/ha (1993). Kinh nghiệm sản xuất của nông dân ngày càng được nâng cao, nhất là trong khâu chọn giống, dự báo tình hình sâu bệnh… Đặc biệt, chương trình khuyến nông được tổ chức thường xuyên giúp nông dân tiếp cận nhanh chóng các kiến thức khoa học, góp phần giảm chi phí sản xuất, làm cho thu nhập của nông dân ngày càng cao hơn. Bên cạnh, Đảng ủy thực hiện chính sách đầu tư vốn của Nhà nước bằng nguồn quỹ liên tập đoàn và các tổ chức khác với lãi suất thấp. Có trên 2/3 nông dân được vay vốn, đã chấm dứt tình trạng vay lúa non, vay nặng lãi. Việc thu hồi nợ được thanh toán dứt điểm theo từng vụ. Nông dân đóng thuế nông nghiệp và thủy lợi phí tạo nguồn đầy đủ và sớm nhất thị xã.
Mặc dù chưa có chủ trương của Thị xã ủy, nhưng Đảng ủy mạnh dạn chỉ đạo sản xuất thử nghiệm vụ Thu Đông (vụ 3) 96 ha thuộc tổ liên kết sản xuất 1 và 2. Bằng ngân sách hiện có và vận động nông dân đóng góp mỗi đầu công 20.000 đồng, phường đã đầu tư hoàn chỉnh đê bao, hệ thống cống, bửng, đảm bảo sản xuất trong thực hiện tăng vụ và đã thành công. Đó là nhờ sự quyết tâm, đoàn kết thống nhất trong Đảng bộ và tinh thần trách nhiệm dám nghĩ, dám làm của Đảng ủy.
Hoạt động của ngành tiểu, thủ công nghiệp còn mang tính tự phát, đến năm 1993, toàn phường có 544 cơ sở, thu hút 1.054 lao động, tập trung nhiều ở các ngành sửa điện kỷ nghệ, sản xuất đồ mộc dân dụng, sản xuất mắm cá, bánh kẹo… giảm 46 cơ sở do không cạnh tranh được với thị trường. Dịch vụ tiểu thương có 2.373 hộ, trong đó 50% - 60% cư trú ở phường A.
Ban văn hóa thông tin phường thường xuyên tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến nhân dân; tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao chào mừng các ngày lễ lớn trong năm. Kết hợp với công an và đội văn hóa của thị xã kiểm tra các hộ kinh doanh văn hóa phẩm, các điểm chiếu vidéo và karaoke. Qua đó, phường bắt giao về trên nhiều loại văn hóa phẩm có nội dung xấu và phạt tiền 340.000 đồng những hộ vi phạm.
Về giáo dục, Đảng ủy tập trung công tác giáo dục chính trị, tư tưởng ở các trường cấp I, cấp II thuộc địa bàn quản lý thông qua hoạt động của chi bộ giáo dục. Sửa chữa cơ sở vật chất ở các trường tiểu học và mẫu giáo A. Để thực hiện tốt xã hội hóa giáo dục, năm 1993, phường tổ chức Đại hội thành lập Hội đồng giáo dục gồm 15 thành viên và các tiểu ban. Trong 2 năm, phường đã xóa mù được 145 học viên và phổ cập giáo dục được 260 học viên công nhận hết mức 3.
Ủy ban Dân số - kế hoạch hóa của phường được thành lập, đã vận động được 3.404 cặp vợ chồng trong độ tuổi thực hiện sinh đẻ kế hoạch, đã hạ tỷ lệ tăng dân số còn 1,6%. Hơn 2 năm, Trạm y tế phường làm tốt công tác khám và trị bệnh cho nhân dân được 108.166 lượt người; tiêm chủng mở rộng phòng 6 bệnh cho 1.564 trẻ em.
Hoạt động của tổ thuốc nam cũng đem lại hiệu quả đáng kể, phục vụ trị liệu cho 45.326 lượt người, phát thuốc miễn phí trị giá 63,88 triệu đồng.
Tạo điều kiện cho nhân dân hiểu và chấp hành tốt các qui định về luật pháp của Nhà nước, phường thành lập tổ tuyên truyền tiến hành tuyên truyền, giải thích trong nhân dân 8 khóm các quyết định về quản lý đô thị, Quy chế quản lý biên giới… Các chỉ thị, thông báo của Ủy ban nhân dân tỉnh và thị xã.
Thực hiện chủ trương giải tỏa hành lang lộ giới, phường vận động và được nhân dân đồng tình nghiêm chỉnh thực hiện: từ ngã tư đường núi đến cầu số 4 của Quốc lộ 91, các tuyến đường liên khóm, đường Cử Trị nối dài, đường Vĩnh Phú khóm 7, đường Trường Đua, đường khóm 8. Công tác bảo vệ môi sinh, môi trường trong 2 năm được lãnh đạo thực hiện tốt, trật tự khu vực chợ đã sắp xếp lại, từng bước đi vào ổn định.
Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy về xây dựng và phát triển nông thôn, phường đã thực hiện công trình nâng cao, mở rộng đường giao thông khóm 7 và khóm 8, tổng kinh phí đầu tư 348 triệu đồng; kéo mới và sửa các tuyến đường điện khóm 2. khóm 3, khóm 7.
Quản lý thu ngân sách là công tác trọng tâm của phường, được sự lãnh đạo xuyên suốt của Đảng ủy, chính quyền. Năm 1991 - 1992, tổng thu ngân sách trên địa bàn là 1 tỉ 630 triệu 480 ngàn đồng vượt chỉ tiêu trên giao. Từ các nguồn thu và ngân sách tập trung điều tiết cho phường đảm bảo chi thường xuyên cho bộ máy hoạt động, sửa chữa các công trình phục vụ đời sống và phúc lợi xã hội. Chăm lo sự nghiệp y tế, giáo dục.
Trong công tác đền ơn đáp nghĩa, phường cất 6 căn nhà tình nghĩa, trị giá 60.400.000 đồng, sửa chữa 29 căn nhà cho gia đình liệt sĩ, thường binh và hộ nghèo, trị giá 4.380.000 đồng, cấp 11 sổ tiết kiệm cho thương binh, gia đình liệt sĩ 3.500.000 đồng. Ngoài ra, phường cứu trợ thường xuyên cho 12 cụ già neo đơn và 7 trẻ mồ; trợ giúp 164 học sinh nghèo và lớp học tình thương 2.211.300 đồng.
Đặc biệt ngày 27/7 năm 1993, Đảng ủy tổ chức họp mặt 181 gia đình liệt sĩ, thương binh và tặng quà trị giá 4,5 triệu đồng.
Thực hiện chủ trương “tăng giàu, giảm nghèo” của Tỉnh ủy, phường trợ giúp cho 236 hộ nghèo gặp khó khăn mượn 8,14 triệu đồng. Quỹ tín dụng tình thương, Quỹ bảo trợ xã hội cho 44 hộ vay vốn 38,6 triệu đồng. Song song, phường nhận 50 triệu trên đưa về cho 150 hộ vay, trong đó có 30 hộ thuộc diện chính sách.
Phong trào quần chúng tự quản của phường có nhiều chuyển biến rõ nét, Ban nhân dân tự quản được tổ chức theo 4 chức danh, có 7/8 khóm bí thư chi bộ kiêm trưởng ban tự quản. Phường quan tâm xây dựng nguồn quỹ phục vụ phong trào quần chúng tự quản, đã vận động được 111 triệu đồng dùng chi trả phụ cấp cho cán bộ ban tự quản, bồi dưỡng các lực lượng, mua sắm, trang bị những dụng cụ cần thiết cho phong trào.
Thực hiện Chỉ thị 135 của Hội đồng Bộ trưởng về công tác tấn công tội phạm, đã xóa 3 tụ điểm phức tạp, thu hồi tang vật trả cho chủ cũ trên 205 triệu đồng. Kết hợp với đoàn thể và ban tự quản vận động quyên góp cất sửa 6 căn nhà trị giá 1,85 triệu đồng, tặng quà cho thanh niên lên đường nhập ngũ…
Thực hiện Chỉ thị 278 của Hội đồng Bộ trưởng và Chỉ thị 13 của Thủ tướng Chính phủ, phường vừa tăng cường truy bắt, vừa phát động rộng rãi trong nhân dân về tác hại của hàng hóa nhập lậu. Trong 2 năm, đã tổ chức kiểm tra, phát hiện 1.177 vụ vận chuyển, tàng trữ hàng nhập lậu. Song tình hình buôn lậu và số người qua lại biên giới trái phép vẫn còn phức tạp.
Tổng kết phong trào quần chúng tự quản năm 1992, phường được tỉnh tặng cờ “Đơn vị mạnh” và 1 triệu đồng.
Nhằm tăng cường sức chiến đấu của Đảng trong công tác quân sự địa phương, Ban Chỉ huy quân sự phường được điều chỉnh phù hợp với trình độ, năng lực và sức khỏe, trên tăng cường về 1 sĩ quan. Do đặc điểm phường đại bộ phận đoàn viên là dân quân nên cơ cấu bí thư phường đoàn phụ trách chính trị viên phó.
Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh biên giới, Ban chỉ huy quân sự phường luôn chú trọng công tác tuần tra, canh gác, huấn luyện chiến - kỹ thuật cho đơn vị sẵn sàng chiến đấu khi có tình huống xảy ra. Đồng thời, củng cố vững chắc tuyến phòng thủ biên giới, đưa 50 lượt chiến sĩ dự tập huấn ở trên, 237 lượt chiến sĩ tham gia huấn luyện tại chỗ.
Công tác gọi thanh niên nhập ngũ luôn giữ vững thành tích 18 năm liền đạt và vượt chỉ tiêu trên giao, hình thành đại đội dự bị động viên do Thị đội quản lý. Thông qua các dịch vụ sản xuất tự túc, đơn vị đã xây dựng được nguồn quỹ để mua sắm quân trang cho chiến sĩ, phương tiện thông tin liên lạc, cải thiện đời sống cho đơn vị.
Trong 2 năm, Mặt trận và các đoàn thể thường xuyên đổi mới phương thức hoạt động theo tinh thần Nghị quyết 8B của TW, chú trọng xây dựng phong trào nhân dân tham gia tích cực vào hoạt động xã hội có chiều sâu, nhất là quan tâm đến tâm tư, nguyện vọng, tình cảm, đời sống của đoàn viên, hội viên, nhân dân. Ngoài việc phối hợp với chính quyền tuyên truyền, học tập nghị quyết của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể vận động nhân dân mua tín phiếu kho bạc Nhà nước vượt chỉ tiêu trên giao, tham gia đóng góp sửa đổi Hiến pháp, đóng góp dự thảo Luật đất đai, bầu cử Quốc hội khóa IX. Giới thiệu cho đoàn viên, hội viên được vay vốn để tổ chức cuộc sống; vận động nhân dân cho con, em theo học lớp xóa mù và phổ cập giáo dục; mua tập, viết giúp 181 học sinh nghèo và con, em thương binh, liệt sĩ, trị giá 1.990.000 đồng, từng bước tạo niềm tin trong nhân dân. Thường xuyên thực hiện công tác hậu phương quân đội, thăm hỏi và tặng quà đơn vị đóng gần biên giới.
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc phường vận động Quỹ từ thiện trong nhân dân được 158,26 triệu đồng, chi trợ giúp 124,77 triệu đồng cho gia đình neo đơn, nghèo khó có vốn làm ăn, sinh sống và những lúc bệnh tật; thường xuyên hướng dẫn các tổ chức tôn giáo và những nơi thờ tự chấp hành tốt Nghị định 69 của Hội đồng Bộ trưởng, kịp thời ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật của tu sĩ “mượn đạo tạo đời”.
Hội Nông dân tích cực thực hiện tốt Chỉ thị 25 của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành lập 6 tổ nông dân sản xuất giỏi. Các hội viên hoạt động có hiệu quả trên tinh thần tự nguyện. Hội củng cố tổ chức, đẩy mạnh công tác khuyến nông và trợ giúp vốn cho những hộ gặp khó khăn trong sản xuất, kết hợp với cán bộ kỹ thuật Phòng Nông nghiệp hướng dẫn nông dân thực hiện chương trình IPM, đưa 200 lượt cán bộ, hội viên dự tập huấn ngắn ngày, triển lãm nông ngư cơ và giới thiệu nông dược mới…, góp phần tích cực vào việc tăng năng suất, thu nhập cho nông dân.
Hội Liên hiệp phụ nữ chú trọng phong trào giúp nhau làm kinh tế gia đình và nuôi con khỏe, dạy con ngoan; kết hợp với Trạm y tế vận động tiêm chủng cho trẻ em, chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ và thai phụ.
Đoàn Thanh niên được tổ chức đều khắp các khóm, lực lượng vũ trang, trường học, hoạt động trên các lĩnh vực sản xuất, đời sống, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và bảo vệ an ninh biên giới. Thông qua các phong trào hành động cách mạng của tuổi trẻ như thể dục thể thao, kể chuyện truyền thống, dạy và học tốt, kết nghĩa với các lực lượng vũ trang, xây dựng những công trình phúc lợi công cộng… đã bồi dưỡng phát triển đoàn viên mới. Từ khi có Nghị quyết của Đảng ủy về công tác thanh niên trong tình hình hiện nay, tổ chức đoàn có chuyển biến rõ nét, các chi bộ đều phân công đảng viên phụ trách hoặc trực tiếp làm bí thư chi đoàn. Bí thư phường đoàn là đảng ủy viên để tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với đoàn thanh niên.
Hội Cựu chiến binh, bộ phận thường trực củng cố đủ mạnh để hoạt động của hội đúng qui định. Ngoài việc thường xuyên hội họp ở các khóm, Hội kịp thời phát hiện những tin đồn xấu, phản tuyên truyền, góp phần giữ gìn an ninh trật tự khu dân cư; thăm hỏi, giúp đỡ hội viên khi đau yếu, gặp khó khăn trong cuộc sống.
Hội Chữ thập đỏ có chuyển hướng hoạt động, tích cực thực hiện tốt vai trò là một tổ chức từ thiện, khám, trị bệnh miễn phí cho nhân dân lao động nghèo và giúp đỡ trong lúc khó khăn… Phường thành lập tổ chẩn trị y học dân tộc, hướng dẫn lương y đăng ký hành nghề, tổ chức thi tay nghề và kiểm tra các điểm bán thuốc đông y.
Công tác xây dựng Đảng, trước tình hình diễn biến phức tạp trên thế giới và nhất là nước Campuchia, hàng tháng ngoài việc sinh hoạt, thông tin tình hình ở chi bộ qua tài liệu của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Đảng ủy còn tổ chức sinh hoạt, học tập, quán triệt trong toàn Đảng bộ các Nghị quyết 3, 4 của Trung ương, thảo luận sửa đổi Hiến pháp, Luật đất đai, Nghị quyết 07 của Tỉnh ủy, những sửa đổi trong Điều lệ Đảng của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, 4 nhiệm vụ của đảng viên, tình hình thời sự trong và ngoài nước... Nhân ngày kỷ niệm 30/4 và 27/7, Đảng ủy tổ chức họp mặt các gia đình liệt sĩ, thương binh, cán bộ cốt cán để ôn lại truyền thống vẻ vang của dân tộc và nêu những thành tựu đạt được của địa phương.
Nhằm nâng cao trình độ cho cán bộ, đảng viên, Đảng ủy đưa 1 đồng chí học lớp trung cấp lý luận chính trị, 1 học lớp quản trị hành chánh, 28 học lớp bồi dưỡng đối tượng Đảng. Trong nhiệm kỳ phát triển 2 đảng viên, tách chi bộ liên khóm 3 - 4 thành 2 chi bộ độc lập. Toàn Đảng bộ có 13 chi bộ trực thuộc với 116 đảng viên, trong đó có 32 nữ.
Đảng ủy phân công, bố trí cán bộ theo quan điểm vì việc mà chọn người, nên qua 2 năm tuy đội ngũ cán bộ có biến động nhưng hiệu quả hoạt động cao hơn. Điều động 1 đảng ủy viên phụ trách bí thư chi bộ khóm, 1 đảng ủy viên là bí thư chi bộ khóm về nhận nhiệm vụ bí thư Phường đoàn, 1 đảng viên là bí thư Phường đoàn về chuyên trách bí thư chi bộ khóm, tăng cường 2 đảng viên cho 2 chi bộ khóm.
Ủy ban kiểm tra tích cực làm rõ những vụ việc vi phạm, mạnh dạn đấu tranh, giúp đỡ đảng viên trên tinh thần xây dựng với phương châm ngăn ngừa là chính, đồng thời giải thích xác đáng những đơn, thư khiếu nại của đảng viên về hình thức kỷ luật. Trong 2 năm đã kỷ luật 3 đảng viên, trong đó 2 cảnh cáo, 1 khiển trách do vi phạm phong cách lãnh đạo và có hành động xấu làm ảnh hưởng đến uy tín tổ chức Đảng; xóa tên 3 đảng viên không tham gia sinh hoạt Đảng, cho ra khỏi Đảng 2 đảng viên theo đơn xin, công nhận 1 đảng viên đã khắc phục sửa chữa khuyết điểm.
Những thành tích đạt được là đáng phấn khởi, nhưng còn mặt hạn chế để Đảng bộ tiếp tục khắc phục như: lĩnh vực nông nghiệp còn độc canh cây lúa, chuyển dịch cơ cấu chậm, chăn nuôi mang tính tự phát chưa thành phong trào. Vai trò lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực giáo dục còn yếu. Trình độ cán bộ làm công tác phụ nữ ở một vài khóm còn yếu, hội viên chưa thực sự hoạt động nhiều. Đoàn chưa quan tâm đúng mức bồi dưỡng đội ngũ kế thừa từ hội và đội nên công tác phát triển đoàn còn chậm. Một vài chi bộ, công tác quy hoạch, phát triển đảng chưa được quan tâm đúng mức, dẫn đến tình trạng đối tượng không đủ tiêu chuẩn qui định, hầu hết có trình độ văn hóa thấp, nguồn đối tượng từ đội ngũ giáo viên và đoàn thể ít. Công tác quản lý đảng viên ở các chi bộ khóm còn lỏng lẻo, không phân công được những đảng viên trẻ, khỏe từ nơi khác chuyển đến.
Năm 1993, phường Châu Phú A tổ chức Đại hội Đảng bộ lần thứ IX nhiệm kỳ 1993 - 1995. Đồng chí Nguyễn Hoài Bắc được tái đắc cử Bí thư Đảng ủy, đồng chí Chung Văn Phú, Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường.
Đại hội đã đề ra mục tiêu, nhiệm vụ đến năm 1995 như sau:
- Tiếp tục giữ vững ổn định về chính trị, trên cơ sở thực hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, các chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Thúc đẩy nông nghiệp phát triển toàn diện, lấy chăn nuôi làm mục tiêu chính để phát triển kinh tế nông thôn, thực hiện thắng lợi chủ trương “tăng giàu, giảm nghèo”. Xây dựng cơ sở hạ tầng để từng bước thành thị hóa nông thôn, phấn đấu nâng mức sống của nhân dân tăng 1,5 lần so với năm 1993. Tạo điều kiện xã hội hóa các hoạt động văn hóa - xã hội.
- Bảo vệ vững chắc an ninh biên giới, ổn định an ninh trật tự và giữ gìn kỷ cương, pháp luật của Nhà nước.
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, Đảng bộ và nhân dân Châu Phú A quyết tâm thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội đã đề ra.
Năm 1996, Đại hội Đảng bộ phường lần thứ X nhiệm kỳ 1996 - 2000 được tổ chức, đồng chí Nguyễn Hoài Bắc được tái đắc cử Bí thư Đảng ủy. Tháng 6-1996, đồng chí Nguyễn Hoài Bắc được điều động về thị xã, đồng chí Lâm Quốc Dũng thay làm Bí thư. Đồng chí Chung Văn Phú, Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường.
Đại hội đã đề nhiệm vụ trọng tâm là: xây dựng tổ chức Đảng luôn trong sạch vững mạnh; tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế xã hội, thực hiện nếp sống văn minh, phát huy dân chủ cơ sở trên các lĩnh vực; thực hiện tốt công tác xóa đói giảm nghèo.
Xác định cơ cấu kinh tế của phường là “Phát triển dịch vụ, thương mại và các ngành tiểu thủ công nghiệp. Đồng thời, thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa từng bước trong sản xuất nông nghiệp”, trong nhiệm kỳ, Đảng bộ đã chỉ đạo, lãnh đạo nhân dân nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, tìm ra biện pháp tốt để đạt được kết quả khả quan.
Dịch vụ, thương mại có phát triển, từ 2.302 hộ (1996) tăng lên 2.613 hộ. Riêng các hộ mua bán nhỏ đến thời vụ lễ, hội có lúc tăng lên từ 500 hộ đến 700 hộ.
Tiểu thủ công nghiệp, do Nhà nước khuyến khích và cho vay vốn khá lớn nên đã phát triển khá tốt, nhất là các ngành nghề truyền thống địa phương như làm mắm, cá tra phồng… Đến giữa năm 2000, toàn phường phát triển 330 cơ sở với 744 lao động, trong đó có 7 doanh nghiệp tư nhân với 51 lao động.
Sản xuất nông nghiệp có nhiều khởi sắc, tiếp tục phát triển tốt về năng suất, sản lượng, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, khuyến khích nông dân đầu tư khai thác tốt tiềm năng đất đai trong sản xuất. Từ hệ số vòng quay đất từ 2,29 lần (1996) tăng lên 3 lần/năm (2000).
Thực hiện luật hợp tác xã, cuối năm 1998, phường thành lập hợp tác xã nông nghiệp có 505 xã viên với diện tích 316 ha và hoạt động tốt, góp phần tăng thu nhập cho nông dân lợi nhuận từ 30% đến 40%.
Ngoài các công trình phục vụ sản xuất, phường tập trung xây dựng giao thông nông thôn như trải cát đường Vĩnh Phú, sửa đường Vĩnh Chánh, làm cống thay cầu Trường Đua, nâng cấp đường Trường Đua, xây dựng hệ thống đèn đường… vận động nhân dân trải cát các con hẽm với tổng chiều dài 3.200m, tổng số tiền 15,8 triệu đồng, tạo điều kiện cho nhân dân đi lại, sinh hoạt dễ dàng.
Giáo dục có những chuyển biến đáng kể, không còn tình trạng dạy ca ba, số lượng huy động học sinh các cấp qua từng năm đều tăng. Tỷ lệ học sinh bỏ học giữa chừng đều giảm, năm 1995 - 1996 là 6,62%, năm 1997 - 1998 còn 4,42%. Công tác xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học được công nhận đạt chuẩn quốc gia năm 1998. Trong nhiệm kỳ, phường xây mới 3 phòng học trường tiểu học Lê Văn Tám và 12 phòng học do trên xây dựng. Từ đó đáp ứng được nhu cầu giáo dục của phường.
Chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, trong 5 năm Trạm y tế phường khám, chữa bệnh cho 281.019 lượt người (kể cả y tế tư nhân). Kết hợp y học cổ truyền và chữ thập đỏ, phường tổ chức khám trị bệnh cho nhân dân vùng ven được 4.143 lượt người, cấp thuốc miễn phí trị giá trên 6 triệu đồng.
Thực hiện chương trình dân số - kế hoạch hóa gia đình, phường chú trọng gắn chặt với công tác truyền thông nhằm tư vấn, tuyên truyền, giải thích những ưu, nhược điểm từng biện pháp để đối tượng tự lựa chọn và chấp nhận biện pháp thích hợp. Trong 5 năm, dân số - kế hoạch hóa gia đình đã tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện các biện pháp tránh thai, góp phần giảm tỷ lệ tăng dân số hàng năm bình quân 0,06%. Các đoàn thể vận động thành lập 5 tổ, nhóm không sinh con thứ 3 với 326 hội viên. Các chương trình y tế quốc gia đều đạt chỉ tiêu trên giao. Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng giảm từ 32% còn 28%.
Xác định nhiệm vụ bảo vệ an ninh biên giới là nhiệm vụ trọng tâm lâu dài, phường thường xuyên rèn luyện tinh thần cảnh giác cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ; tổ chức huấn luyện nâng cao chiến kỹ thuật cho lực lượng dân quân. Làm tốt công tác quản lý lực lượng dự bị động viên và thực lực thanh niên trong hạn tuổi. Đến năm 2000, lực lượng dân quân có 176 đồng chí, đạt tỷ lệ 0,7% so dân số. Công tác gọi thanh niên lên đường nhập ngũ hàng năm đều đạt 100% chỉ tiêu trên giao.
Đảng ủy luôn quan tâm công tác tư tưởng chính trị, tổ chức 28 cuộc học tập quán triệt các nghị quyết Trung ương và đề ra chương trình hành động phù hợp với tình hình thực tế cho toàn Đảng bộ. Qua đó, cán bộ, đảng viên nâng cao tinh thần trách nhiệm trong công tác, tích cực thực hiện nhiệm vụ chính trị địa phương.
Trong nhiệm kỳ, Đảng ủy thành lập thêm 4 chi bộ, phát triển 33 đảng viên, nâng tổng số đảng viên toàn Đảng bộ lên 143, sinh hoạt trong 16 chi bộ. Đảng bộ luôn được công nhận là trong sạch vững mạnh.
Công tác đào tạo, Đảng ủy đưa 38 đồng chí học tập các lớp sơ cấp, trung cấp và 47 lượt cán bộ, đảng viên tham gia chuyên đề về xây dựng Đảng, 1 đồng chí học lớp cao cấp chính trị, 2 đồng chí học đại học, 10 đồng chí học các lớp trung cấp hành chính, luật, cảnh sát…
Công tác kiểm tra được chú trọng thực hiện. Trong nhiệm kỳ, Đảng ủy kiểm tra thường xuyên 381 lượt đồng chí, kiểm tra chấp hành 174 lượt đồng chí; kiểm tra 11 trường hợp có dấu hiệu vi phạm và xử lý kỷ luật.
2- Giai đoạn 2001 - 2010
Năm 2001, phường Châu Phú A tổ chức Đại hội Đảng bộ lần thứ XI nhiệm kỳ 2001 - 2005. Đồng chí Lâm Quốc Dũng được tái đắc cử Bí thư Đảng ủy. Tháng 3-2002, đồng chí Lâm Quốc Dũng được Thị xã ủy điều động làm Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Thị ủy, đồng chí Chung Văn Phú được quyết định thay làm Bí thư Đảng ủy.
Trong nhiệm kỳ, Đảng bộ phường phát huy thế mạnh chợ trung tâm thị xã, nơi có nhiều khách du lịch tham quan mua sắm quanh năm, khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các loại hình dịch vụ phục vụ du lịch như: khách sạn, nhà trọ, cửa hàng ăn uống, sắp xếp các điểm mua bán hàng đặc sản… Từ năm 2003, Ủy ban nhân dân thị xã Châu Đốc bàn giao chợ trung tâm cho phường quản lý. Từng bước, phường củng cố, ổn định trật tự và đổi mới cung cách phục vụ, tạo thuận lợi cho việc đi lại, mua sắm, thu hút đông khách du lịch, nhất là vào lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam và Tết Nguyên Đán. Năm 2004, chợ trung tâm được thị xã công nhận đạt danh hiệu chợ trật tự - an toàn - vệ sinh.
Khuyến khích phát triển tiểu thủ công nghiệp, phường hướng dẫn tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục hành chính đi đôi với phổ biến chủ trương, chương trình khuyến công của Nhà nước. Trong 5 năm, toàn phường phát triển 12 cơ sở, thu hút 59 lao động, chủ yếu là các ngành nghề sửa chữa cơ khí. Hầu hết các cơ sở đã đầu tư đổi mới thiết bị, cải tiến mẫu mã, đăng ký nhãn hiệu hàng hóa. Một số cơ sở đã thành doanh nghiệp tư nhân.
Sản xuất nông nghiệp, hợp tác xã chủ động tổ chức các loại hình dịch vụ như: bơm tưới cung ứng vật tư, nông dược trả chậm, góp phần hạn chế tối đa tình trạng vay nặng lãi ở nông thôn. Đồng thời, hợp tác xã còn tổ chức cho nông dân tham quan, học hỏi kinh nghiệm những mô hình làm ăn có hiệu quả về chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Phường còn áp dụng nhiều chương trình khuyến nông, thực hiện 3 giảm 3 tăng, góp phần nâng cao thu nhập từ 20% - 35%, cá biệt có hộ 40%. Sản lượng bình quân 45 triệu đồng/ha.
Về ngân sách, tổng thu 9.231 triệu đồng, tổng chi 8.237 triệu đồng. Các nguồn thu như: lao động công ích, phí an ninh trật tự, thuế môn bài nhỏ, vệ sinh phí, Quỹ phòng chống lụt bão… luôn đảm bảo chỉ tiêu trên giao. Đặc biệt, trong năm 2004, phường chuyển từ hình thức thu hoa chi (320 triệu/năm) sang thu mặt bằng chợ (662 triệu/năm) đã vượt chỉ tiêu trên giao 106,8%.
Các nguồn thu chủ yếu tập trung chi cho đầu tư xây dựng các công trình phúc lợi phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Ngoài những công trình của trên đầu tư cho phường đã hoàn thành và đưa vào sử dụng như: 4 phòng học của điểm trường tiểu học Lê Văn Tám, nâng cấp đoạn bị ngập lũ đường Trần Hưng Đạo, nâng cấp, tráng nhựa đường Vĩnh Phú, đường Tỉnh lộ 55A khu vực khóm Vĩnh Chánh, cầu Vĩnh Ngươn, cầu phường Châu Phú A, đường dây trung hạ thế và trạm biến áp kênh Ông Cò, hệ thống cung cấp nước sạch khóm Vĩnh Chánh…, phường tập trung hỗ trợ giải tỏa, đền bù mặt bằng đường dẫn cầu Cồn Tiên, tuyến dân cư khóm 8 mở rộng, công viên tượng đài Thoại Ngọc Hầu, di dời số dân giải tỏa lên khu dân cư Châu Thạnh (xí nghiệp rượu) và đường Tỉnh lộ 55A.
Phường xây dựng cơ sở hạ tầng gồm 15 công trình, 31 căn nhà tình nghĩa, trụ sở Phường đội, cải tạo, sửa chữa nhà lồng chợ trung tâm, văn phòng Ủy ban nhân dân phường, trạm truyền thanh tổng kinh phí 2.134 triệu đồng, kéo điện thắp sáng công cộng cho tuyến dân cư khóm 8, đường Vĩnh Phú và một đoạn đường Cử Trị nối dài.
Công tác giáo dục, Đảng ủy, Ủy ban nhân dân cùng các đoàn thể có nhiều nỗ lực, tích cực huy động, mở lớp phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. Tỷ lệ huy động các lớp tăng, đảm bảo duy trì sĩ số. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp ở các cấp tăng đều mỗi năm. Cơ sở vật chất, trường lớp ngày càng khang trang, đáp ứng được yêu cầu dạy và học. Chất lượng giáo dục không ngừng tăng lên, học sinh lên lớp, tốt nghiệp tiểu học, giáo viên giỏi, học sinh giỏi cấp thị xã, cấp tỉnh đạt tỷ lệ cao. Hàng năm, phường đạt chuẩn quốc gia trong công tác phổ cập giáo dục, chống mù chữ. Đặc biệt, năm 2004, đạt thêm chuẩn phổ cập giáo dục đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Trường tiểu học Nguyễn Huệ đạt chuẩn quốc gia. Hoạt động của Hội khuyến học và trung tâm học tập cộng đồng được đẩy mạnh.
Công tác y tế, phường thực hiện đầy đủ các chương trình y tế quốc gia. Trạm y tế kết hợp với hội đông y thường xuyên tổ chức khám chữa bệnh miễn phí và làm công tác xã hội từ thiện chữa bệnh bằng thuốc nam, châm cứu… cho nhân dân, nhất là nhân dân vùng ven.
Phường tuyên truyền rộng rãi việc phòng chống dịch bệnh và ngăn chặn kịp thời. Số trẻ được tiêm chủng mở rộng hàng năm đều đạt từ 96% - 100%. Hạ tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng từ 28% còn 19,65%. Tỷ lệ tăng dân số hàng năm giảm từ 1,28% còn 1,19%.
Tổ văn hóa của phường tập trung tuyên truyền cổ động phục vụ các nhiệm vụ chính trị của địa phương và các ngày lễ lớn của dân tộc. Thực hiện tốt các hoạt động văn hóa, nâng cao chất lượng mạng lưới thông tin truyền thanh ở địa bàn dân cư và gắn hệ thống truyền thanh ở khu vực chợ trung tâm để thông tin các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến nhân dân và các hộ mua bán. Phường khôi phục hoạt động đờn ca tài tử ở các khóm, phát triển phong trào văn nghệ quần chúng ở các khóm văn hóa theo hướng xã hội hóa; thành lập đội cầu lông, đội cầu đá, câu lạc bộ cờ tướng. Hàng năm, phương tham gia các giải bóng đá, bóng chuyền nông dân, đua thuyền cấp tỉnh, được xếp thứ hạng cao.
Thực hiện chính sách xã hội, phường cất mới 12 căn nhà tình nghĩa và sửa chữa 38 căn, tổng trị giá 272 triệu đồng. Đến năm 2005, toàn phường có 100% gia đình chính sách có mức sống trung bình trở lên và nhà ở cơ bản ổn định. Công tác bảo trợ xã hội hoạt động đạt hiệu quả. Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, nhất là ở nông thôn. Nhà ở, đường, điện, nước ngày càng phát triển, phường không còn nhà ở tạm bợ. Nhu cầu về ăn, mặc, ở, đi lại của nhân dân ngày càng được đáp ứng khá hơn. Đặc biệt, từ sau mùa lũ năm 2001, phường chủ động nâng cấp, tu sửa, chợ trung tâm không còn bị ngập lụt, nhờ đó cuộc sống nhân dân trên địa bàn được ổn định, giao thông được thuận tiện, không còn bị ảnh hưởng do lũ gây ra.
Đảm bảo cho nhân dân ổn định cuộc sống, phường đã xét, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở trên địa bàn được 3.800 hộ, đạt tỷ lệ 86%.
Xác định bảo vệ an ninh biên giới là nhiệm vụ trọng tâm có ý nghĩa lâu dài, hàng năm Ban chỉ huy quân sự phường đều tổ chức huấn luyện quân sự, nâng cao chiến, kỹ thuật cho lực lượng dân quân, mua sắm trang thiết bị và phương tiện phục vụ cho công tác sẵn sàng chiến đấu. Quân dự bị hiện có 387 đồng chí, gồm 17 sĩ quan, 370 hạ sĩ quan, chiến sĩ, tham gia đầy đủ các đợt huấn luyện theo qui định. Phường làm tốt công tác hậu phương quân đội, nhất là đối với số thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về. Qua đó, công tác tuyển quân trong 5 năm đều đạt chỉ tiêu trên giao, có 149 thanh niên lên đường nhập ngũ. Đăng ký thanh niên trong độ tuổi theo luật định. Đến năm 2005, có 318 dân quân, đạt 1,06% dân số.
Với đặc thù là trung tâm thương mại, dịch vụ, lại là địa bàn gần biên giới, nên tình hình an ninh có phức tạp. Lực lượng công an thường xuyên rèn luyện, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, sâu sát thực tế và phối hợp các ngành, nhất là phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, đã nâng cao tinh thần cảnh giác trong nhân dân nên ít có vụ án nghiêm trọng xảy ra. Phường từng bước đưa Nghị quyết 09/CP của Chính phủ và chương trình quốc gia phòng chống tội phạm trở thành phong trào lớn, đã góp phần ổn định chính trị, giữ gìn an ninh trật tự an toàn xã hội.
Phường tổ chức cuộc bầu cử hội đồng nhân dân 3 cấp đúng theo luật định. Hội đồng nhân dân thể hiện tốt vai trò là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương; tổ chức các kỳ họp theo luật định. Ý kiến của cử tri luôn được đưa ra nghị sự trong các kỳ họp.
Ủy ban nhân dân phường có 5 thành viên, 4 chức danh đã được chuyên môn hóa. Toàn phường có 9 cán bộ chuyên trách, 7 cán bộ công chức và 29 cán bộ không chuyên trách.
Tháng 5-2004, bộ phận “Tiếp nhận và trả kết quả” đi vào hoạt động trên các lĩnh vực và đạt hiệu quả đáng kể. Tinh thần trách nhiệm của cán bộ được nâng cao trong việc tiếp nhận hồ sơ và giải quyết đơn thư của nhân dân, thủ tục hành chính được giải quyết nhanh chóng, chính xác, đúng thời gian quy định, không nhũng nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân. Từ đó, đã tạo được lòng tin của nhân dân vào việc thực hiện cải cách hành chính ở địa phương.
Khối Vận phường gồm 13 thành viên, là lực lượng nòng cốt giúp Đảng ủy và Ủy ban nhân dân trong việc tuyên truyền các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên đến nhân dân. Đồng thời, nắm dư luận xã hội về đạo đức, phẩm chất và lối sống cán bộ, đảng viên để kịp thời điều chỉnh.
Bộ máy hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể được kiện toàn. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc phường tập trung vào cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, Mặt trận đã vận động nhân dân đóng góp trên 197 triệu đồng để bê tông hóa các hẽm ở khóm 1, khóm 2, khóm 3, khóm 4, khóm Châu Thạnh; mắc đèn chiếu sáng hẽm công cộng ở khóm 5; cải tạo, sửa chữa cầu bê tông khóm 6 đã xuống cấp. Mặt trận thường xuyên chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tuyên truyền, vận động, tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI, đại biểu hội đồng nhân dân 3 cấp, bầu cử trưởng khóm. Có 11/11 khóm cử tri tín nhiệm bầu trưởng khóm tái đắc cử.
Cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư được triển khai rộng khắp. Đến năm 2005, toàn phường có 11/11 khóm đạt chuẩn khóm văn hóa, có 5.596 hộ đạt gia đình văn hóa, 45 tổ văn hóa tiên tiến.
Qua nguồn quỹ vận động được trong nhân dân, phường đã cất mới 77 căn nhà đại đoàn kết, trị giá 150 triệu đồng; trợ cấp 45 triệu đồng cho 512 lượt hộ nghèo vui xuân; trợ cấp 43 triệu đồng cho 131 thanh niên lên đường nhập ngũ. Quỹ xã hội từ thiện hỗ trợ 157 triệu đồng cho 230 trường hợp, quỹ khuyến học 31 triệu đồng.
Đảng ủy phường thực hiện tốt chính sách tôn giáo, hướng dẫn hoạt động tôn giáo và tu hành theo đúng quy định của Nhà nước. Mối quan hệ giữa Mặt trận, chính quyền và tôn giáo ngày càng thông hiểu, gắn bó hơn. Các chức sắc tôn giáo tham gia tốt các hoạt động xã hội ở địa phương.
Đối với dân tộc, Đảng ủy phường duy trì, xây dựng khối đại đoàn kết trong cộng đồng người Hoa, phát huy thế mạnh của người Hoa trong sản xuất, dịch vụ, thương mại, du lịch nhằm phát triển kinh tế của phường và thị xã. Cộng đồng người Hoa đoàn kết, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, chấp hành tốt các chủ trương, chính sách và pháp luật, yên tâm đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh. Đồng thời, tích cực đóng góp công tác xã hội từ thiện ở địa phương.
Công đoàn cơ sở phường được thành lập từ tháng 9-2004 với 16 công đoàn viên. Đến năm 2005, số công đoàn viên tăng lên 40. Đảng ủy xác định đây là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, kịp thời đề ra những phương thức, nội dung hoạt động phù hợp với thực tiễn và tham gia xây dựng, tổ chức thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Đảng bộ và công đoàn.
Hội phụ nữ phường nhiều năm qua thực hiện tốt công tác Hội là: giáo dục phẩm chất, đạo đức, nâng cao năng lực và trình độ mọi mặt của phụ nữ. Hội giới thiệu 14 chị em có việc làm, cải thiện cuộc sống gia đình. Phong trào giúp nhau làm kinh tế gia đình được phát triển rộng ở các tổ hội. Qua đó, Hội kết nạp 2.063 hội viên mới.
Đoàn thanh niên phường qua thực hiện các chương trình công tác Đoàn còn lồng ghép các nội dung “Tháng thanh niên”, “50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ”, “Tháng an toàn giao thông”…, đã tạo bước chuyển biến tích cực, thu hút nhiều thanh niên tham gia. Qua đó, Đoàn phường kết nạp 743 đoàn viên. Công tác xây dựng Đoàn, Hội, Đội từng bước được củng cố và sinh hoạt ngày càng có chất lượng, đi vào chiều sâu. Đoàn giới thiệu 34 đoàn viên ưu tú được kết nạp vào Đảng.
Hội cựu chiến binh đẩy mạnh các hoạt động phối hợp với lực lượng vũ trang, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và các ngành tham gia thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng. Phong trào hùn vốn giúp nhau làm kinh tế gia đình được duy trì và phát triển. Hội kết hợp với Phường đoàn tuyên truyền, giáo dục, kể chuyện truyền thống cách mạng cho đoàn viên, thanh niên. Chăm lo tốt đời sống của cán bộ, hội viên. Hội phát triển 28 hội viên mới.
Hội nông dân ngoài việc thực hiện theo 4 chương trình của Hội, từng bước củng cố hoạt động nâng cao vai trò quản lý chi, tổ hội theo 4 nội dung. Hội vận động nông dân tham gia các hoạt động xã hội, từng bước nâng cao mức sống và sinh hoạt ở khu vực nông thôn.
Công tác xây dựng Đảng, Đảng ủy xác định công tác giáo dục chính trị tư tưởng là nhiệm vụ trọng yếu hàng đầu quyết định đến phẩm chất, đạo đức, chất lượng công tác của cán bộ, đảng viên nên luôn triển khai học tập cho cán bộ, đảng viên về chủ trương, chính sách, nghị quyết… của Đảng và pháp luật của Nhà nước, đồng thời tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân. Đảng ủy đưa việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng vào chương trình hành động cụ thể, có sơ, tổng kết định kỳ, kịp thời phát huy những nhân tố tích cực, chấn chỉnh, uốn nắn những yếu kém, tồn tại. Biểu dương những tập thể, cá nhân tiên tiến, phê bình và có giải pháp cụ thể với những cá nhân yếu kém. Chủ động đấu tranh có hiệu quả các biểu hiện tiêu cực. Qua đó, nhận thức, tư tưởng của cán bộ, đảng viên được nâng lên, ý thức tự giác, tinh thần trách nhiệm, tính tiên phong gương mẫu ngày càng tiến bộ trong sinh hoạt, trong công tác…
Công tác tổ chức, trong 5 năm. Đảng ủy kết nạp 50 đảng viên mới, nâng tổng số đảng viên lên 201 đồng chí, sinh hoạt ở 22 chi bộ, tăng 6 chi bộ so nhiệm kỳ trước, gồm 11 chi bộ khóm, 6 chi bộ trường học và 5 chi bộ cơ quan. Đang viên hầu hết còn trẻ, trình độ học vấn tương đối đồng đều, tập trung nhiều ở trường học, bổ sung nguồn lãnh đạo các khóm. Năm năm liền, Đảng bộ được công nhận trong sạch vững mạnh.
Công tác cán bộ được Đảng ủy quan tâm, đã có 4 đồng chí tốt nghiệp đại học, 12 đồng chí tốt nghiệp trung cấp lý luận chính trị, 2 đồng chí tốt nghiệp trung cấp chuyên môn. Thực hiện chủ trương điều động, luân chuyển cán bộ, Đảng ủy đã luân chuyển 15 đồng chí, trong đó có 7 đồng chí nhận nhiệm vụ mới ở thị xã; bầu bổ sung 1 đồng chí vào Ban Thường vụ, 4 đồng chí vào Ban Chấp hành. Đến năm 2005, Đảng ủy có 14 đồng chí (khuyết 1 đồng chí), Ban Thường vụ có 3 đồng chí (khuyết 2 đồng chí).
Công tác kiểm tra, hàng năm, Đảng ủy kiểm tra thi hành điều lệ Đảng, Quy định 19/TW của Trung ương, thực hành tiết kiệm chống lãng phí… đối với chi bộ và đảng viên. Công tác tự phê bình và phê bình được thực hiện nghiêm túc, kịp thời kiểm tra đảng viên có dấu hiệu vi phạm và kiểm tra thường xuyên. Trong nhiệm kỳ, có 16 đảng viên vi phạm phải xử lý kỷ luật.
Trên cơ sở những thành tựu đạt được, ngày 26-7-2005, phường Châu Phú A tổ chức Đại hội Đảng bộ lần thứ XII nhiệm kỳ 2005 - 2010. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành 14 đồng chí, Ban Thường vụ 4 đồng chí. Đồng chí Lê Bá Thiện được đắc cử chức vụ Bí thư Đảng ủy, đồng chí Huỳnh Văn Hiếu làm Phó Bí thư, đồng chí Trương Thanh Phong làm Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường, đồng chí Lý Văn Hồng làm Ủy viên Thường vụ Đảng ủy.
Đại hội đã đề ra mục tiêu chủ yếu đến năm 2010 là:
- Xây dựng phường trung tâm có thế mạnh thương mại - dịch vụ - du lịch, có môi trường xanh - sạch - đẹp.
- Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, thực hiện các giải pháp phấn đấu để không tái nghèo, tạo điều kiện cho nhân dân có việc làm ổn định, nâng hộ khá và hộ giàu, giảm hộ nghèo.
- Tiếp tục huy động nguồn lực trong nhân dân để hoàn thiện và phát triển cơ sở hạ tầng, từng bước đô thị hóa các khóm vùng ven. Bê tông hóa và có đèn chiếu sáng 100% các hẽm công cộng, lát gạch vĩa hè nội ô, chú trọng hệ thống thoát nước, giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường.
- Xây dựng trung tâm hành chính của phường.
- Giữ vững danh hiệu Đảng bộ trong sạch vững mạnh.
Cụ thể các chỉ tiêu chủ yếu:
- Thu ngân sách phấn đấu hàng năm tăng từ 15 - 20%. Chi ngân sách đạt chỉ tiêu trên giao, trong đó chi cho đầu tư phát triển từ 30% trở lên.
- Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 1%.
- Tách khóm làm tiền đề cho tách phường năm 2008 - 2009.
- Giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân 47 triệu đồng/ha.
- Hộ nghèo giảm 80%.
- Cất mới 10 căn nhà tình nghĩa.
- Phát triển 90 đảng viên mới, thành lập chi bộ độc lập ở các trường học
- Xây dựng trạm y tế đạt chuẩn quốc gia.
- Phấn đấu xây dựng 1 trường đạt chuẩn quốc gia, giữ vững đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở đúng độ tuổi.
Qua 5 năm đoàn kết phấn đấu vượt mọi khó khăn thực hiện Nghị quyết của Đại hội, Đảng bộ và nhân dân phường Châu Phú A đã đạt được những thành tựu quan trọng.
Dịch vụ - thương mại - du lịch có nhiều chuyển biến. Chợ trung tâm thị xã vẫn duy trì danh hiệu chợ đạt chuẩn trật tự - an toàn - vệ sinh. Nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, mua sắm của khách du lịch và nhân dân địa phương trong những ngày cao điểm diễn ra lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam, Tết Nguyên Đán, Đảng ủy tiếp tục khuyến khích, tạo điều kiện cho các loại hình dịch vụ phát triển. Văn minh thương mại từng bước được chấn chỉnh, khu vực chợ trung tâm phục vụ tốt nhu cầu của du khách và tiêu dùng của nhân dân.
Tiểu thủ công nghiệp, sự hỗ trợ về vốn vay đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất và dễ dàng trong thủ tục hành chính đã tạo điều kiện cho ngành nghề phát triển. Đến năm 2010, toàn phường có 628 cơ sở tiểu thủ công nghiệp, tăng 59 cơ sở so với đầu nhiệm kỳ. Các mặt hàng truyền thống là mắm, khô cá tra phồng, lạp xưởng…
Sản xuất nông nghiệp, phường nâng cao chất lượng hoạt động của hợp tác xã, áp dụng nhiều chương trình khuyến nông như 1 phải 5 giảm… góp phần nâng cao thu nhập cho xã viên từ 30% - 40%. Giá trị sản xuất bình quân 63 triệu đồng/ha. Lợi nhuận thu về 360.142.554 đồng, chia lãi cho xã viên 60.085 đồng/cổ phần (mệnh giá cổ phần 114.625 đồng). Chăn nuôi tuy có phát triển, nhưng do tình hình thị trường và thực tế tại địa phương nên hiệu quả không cao.
Phường tiếp tục thực hiện cấp, đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp được 704 thửa, còn lại 121 thửa do tranh chấp và không thuộc trường hợp cấp, đổi.
Tổng thu ngân sách 22,911 tỷ đồng, trong đó các nguồn thu tại địa phương như thu phí, lệ phí đạt và vượt chỉ tiêu trên giao. Tổng chi ngân sách 22,848 tỷ đồng. Tỷ lệ chi cho đầu tư phát triển bình quân hàng năm 23%.
Từ nguồn tích lũy ngân sách, phường đầu tư xây dựng 30 công trình xây dựng cơ bản như: xây dựng văn phòng 11 khóm, cải tạo, nâng cấp hội trường Đảng ủy, văn phòng công an phường, mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt động cho khóm và trường học, mua sắm thiết bị truyền thanh… với tổng kinh phí thực hiện 5.129.479.398 đồng.
Phường còn vận động nhân dân thực hiện 59 công trình bê tông hóa hẽm công cộng, cống nước thải sinh hoạt… theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, kinh phí thực hiện 1.531.379.197 đồng, trong đó nhân dân đóng góp 120.316.000 đồng. Bên cạnh, từ nguồn đầu tư của trên, phường đã thực hiện các công trình như: khu công viên Thoại Ngọc Hầu, biệt thự nhà vườn, nhà máy cấp nước, đường dẫn cầu Cồn Tiên, bệnh viện thị xã, san lấp kinh Ông Cò và cải tạo nâng cấp đường Trường Đua, đường Cử Trị, đường Nguyễn Văn Thoại.
Phường làm tốt công tác vận động học sinh ra lớp, đảm bảo duy trì sĩ số. Trong 5 năm, từ ngân sách các cấp đã đầu tư 1.725.835.000 đồng cho việc sửa chữa trường lớp. Công tác phổ cập giáo dục, chống mù chữ đạt chuẩn quốc gia hàng năm. Hội khuyến học tổ chức vận động 82.719.500 đồng, giúp đỡ các em có hoàn cảnh khó khăn đến trường.
Trạm y tế phường được xây dựng mới, đảm bảo phương tiện khám, chữa bệnh cho nhân dân; đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nhân dân giữ gìn vệ sinh môi trường, hạn chế dịch bệnh. Đến năm 2010, phường có 5/11 khóm được công nhận khóm sức khỏe. Số trẻ hàng năm được tiêm chủng mở rộng đạt từ 98% - 100%. Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng hạ từ 16,22% còn 15,11%, tỷ lệ tăng dân số hàng năm đều giảm từ 1,19% còn 1,14%. Trong 5 năm liền (2005 - 2010), trạm y tế đạt chuẩn quốc gia.
Phong trào văn nghệ quần chúng được củng cố và phát triển mạnh theo hướng xã hội hóa. Công tác kiểm tra các loại hình hoạt động văn hóa được tổ chức thường xuyên. Các hoạt động thể dục thể thao thực hiện tốt phương châm xã hội hóa như: đội cầu lông, cầu đá, câu lạc bộ cờ tướng và sân bóng chuyền.
Đảng ủy thường xuyên quan tâm chăm lo cho gia đình chính sách, hộ nghèo, người già và trẻ em có hoàn cảnh khó khăn. Phường cất mới 6 căn nhà tình nghĩa với tổng giá trị 167.429.000 đồng, sửa chữa 51 căn, tổng giá trị 316 triệu đồng.
Phường thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, quan tâm công tác xóa đói giảm nghèo. Đến năm 2010, phường đã giới thiệu vay vốn 75,595 tỷ đồng; kết hợp với trường trung cấp nghề mở 14 lớp với 197 học viên. Sau khi ra nghề, đa số có việc làm, thu nhập ổn định. Phường còn giới thiệu 46 người đi lao động nước ngoài. Phần lớn các lao động có việc làm tốt, góp phần tăng thu nhập cho gia đình.
An ninh quốc phòng, Đảng ủy tập trung thực hiện các mặt công tác quốc phòng địa phương, tổ chức diễn tập vận hành cơ chế trong tác chiến trị an và huấn luyện. Lực lượng dân quân có 350 cán bộ, chiến sĩ (đạt 1,12% dân số), luôn chủ động sẵn sàng chiến đấu. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền phân giới cắm mốc biên giới Việt Nam - Campuchia. Thực hiện tốt công tác hậu phương quân đội, giúp dân, phòng chống lụt bão.
Trong nhiệm kỳ, có 99 thanh niên lên đường nhập ngũ, đạt 100% chỉ tiêu trên giao, trong đó có 1 đảng viên. Năm 2010, phường có 317 sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ. Công tác giáo dục quốc phòng an ninh thực hiện có hiệu quả, chất lượng ngày được nâng lên. Đảng ủy quan tâm phát triển kinh tế - xã hội gắn với an ninh quốc phòng. Hệ thống giao thông hào, trạm quan sát phòng không tại cơ quan quân sự phường được xây dựng vững chắc.
Tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Lực lượng công an quản lý, giáo dục 294 đối tượng theo Nghị định 163/CP của Chính phủ, xóa các tụ điểm ma túy, băng nhóm gây rối trật tự và những điểm tập kết hàng lậu. Thực hiện Nghị định 38/CP, Ban bảo vệ dân phố được thành lập gồm 80 thành viên, góp phần bảo vệ tình hình an ninh chính trị.
Hội đồng nhân dân làm tốt vai trò giám sát các vấn đề liên quan đến kinh tế -xã hội, an ninh quốc phòng… Ủy ban nhân dân thực hiện tốt cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa - trách nhiệm - thân thiện”, nâng cao tinh thần thái độ phục vụ nhân dân. Quan tâm giải quyết kịp thời đơn thư khiếu nại, tố cáo các tranh chấp phát sinh theo luật định, nâng cao chất lượng công tác hòa giải.
Đảng ủy luôn kiện toàn Ban công tác Mặt trận khóm, đảm bảo số lượng, chất lượng, đồng thời tích cực đổi mới phương thức hoạt động, nâng cao vai trò của Mặt trận đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ địa phương trong tình hình mới. Cuộc vận động “Ngày vì người nghèo” được nhân dân đồng tình ủng hộ, đóng góp được 954.394.000 đồng để sửa chữa, cất mới 52 căn nhà đại đoàn kết và trợ cấp đột xuất cho 3.145 trường hợp.
Đoàn thanh niên thực hiện chương trình “4 đồng hành vì sự phát triển của thanh niên” và “5 xung kích tham gia phát triển kinh tế - xã hội” đã giới thiệu cho 640 hộ vay với số tiền 5.448 triệu đồng để sản xuất kinh doanh, cải thiện cuộc sống. Đoàn còn vận động học nghề, tư vấn xuất khẩu lao động, giới thiệu 198 thanh niên có việc làm ổn định.
Hội phụ nữ thực hiện có hiệu quả 6 chương trình công tác trọng tâm nhằm nâng cao năng lực, trình độ mọi mặt của phụ nữ.
Hội nông dân hướng dẫn nông dân sản xuất có hiệu quả, phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân với 3 phong trào thi đua: sản xuất kinh doanh giỏi, làm giàu và đoàn kết giúp nhau xóa đói, giảm nghèo.
Công đoàn, nghiệp đoàn chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng của công nhân viên chức và người lao động, tích cực giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội, tham gia phòng chống các tệ nạn xã hội và tội phạm.
Hội đông y chăm sóc tốt sức khỏe của nhân dân. Toàn phường có 6 phòng chẩn trị gồm 75 hội viên. Hội đã khám và điều trị bệnh miễn phí cho 1.145.240 lượt người.
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng luôn được Đảng ủy quan tâm thông qua việc tổ chức triển khai, quán triệt và tuyên truyền thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của tỉnh, thị xã và xây dựng kế hoạch thực hiện gắn với nhiệm vụ chính trị của địa phương. Từng quí, phường tổ chức báo cáo thời sự cho cán bộ, đảng viên nắm vững tình hình trong nước và thế giới.
Triển khai tốt cuộc vận động “Học tập và làm theo tấn gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Phường đã tổ chức quán triệt 7 chuyên đề về tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho 914 lượt đảng viên, 1.406 lượt cán bộ, đoàn viên, hội viên và nhân dân. Phường còn tổ chức tọa đàm, hội thi kể chuyện, hái hoa dân chủ, sưu tầm tranh ảnh… Qua đó, giúp cho cán bộ, đảng viên nâng cao ý thức trách nhiệm, hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Công tác tổ chức, Đảng bộ đã tổ chức đại hội các chi bộ nhiệm kỳ mới theo quy định của Điều lệ Đảng. Thường xuyên hướng dẫn các chi bộ thực hiện Chỉ thị số 10 của Ban Bí thư về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ và Hướng dẫn số 05 của Ban Tổ chức Trung ương. Công tác phát triển Đảng, trong nhiệm kỳ Đảng ủy kết nạp 89 đảng viên mới, nâng tổng số đảng viên toàn Đảng bộ lên 310 đồng chí, sinh hoạt trong 24 chi bộ.
Đảng ủy giải thể 1 chi bộ ghép, thành lập 3 chi bộ độc lập, đổi tên 3 chi bộ theo quy định mới. Cho thôi giữ chức ủy viên ban chấp hành Đảng bộ 1 đồng chí, bầu bổ sung 2 ủy viên ban chấp hành và 1 ủy viên ban thường vụ Đảng ủy. Đến năm 2010, Ban Chấp hành Đảng bộ có 15 đồng chí, Ban Thường vụ 5 đồng chí.
Thực hiện tốt công tác đánh giá tập thể và cá nhân cán bộ lãnh đạo quản lý; đánh giá chất lượng chi bộ và đảng viên hàng năm. Năm năm liền, có 104 lượt chi bộ đạt trong sạch vững mạnh, trong đó có 37 lượt chi bộ đạt trong sạch vững mạnh tiêu biểu; Đảng bộ được công nhận trong sạch vững mạnh, trong đó 4 năm liền trong sạch vững mạnh tiêu biểu.
Công tác cán bộ và đào tạo được Đảng ủy quan tâm thường xuyên. Trong nhiệm kỳ đã đưa đi 3 đồng chí học đại học chuyên môn, 24 trung học, 20 trung cấp chính trị, 20 sơ cấp chính trị.
Hàng năm, có 100% chi bộ được kiểm tra việc thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Qua đó, Đảng ủy lựa chọn, nhân rộng những tập thể và cá nhân điển hình tiên tiến. Đảng ủy còn lồng ghép cuộc vận động với công tác kiểm tra, giám sát trên các lĩnh vực cho vay vốn, quản lý đất công, sử dụng ngân sách trong chi tiêu, mua sắm trang thiết bị… Trong nhiệm kỳ, Đảng ủy đã tiếp nhận và xử lý 14 đơn thư tố cáo liên quan đến đảng viên, kỷ luật 8 đảng viên vi phạm.
Những thành quả đạt được là cơ sở để Đảng bộ và nhân dân toàn phường tiếp tục xây dựng và phát triển địa phương. Tuy nhiên cũng còn những mặt hạn chế để Đảng bộ tiếp tục phấn đấu như: tiểu thủ công nghiệp còn sản xuất nhỏ, chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp còn chậm. Tỷ lệ học sinh bỏ học giữa chừng còn cao. Công tác phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội từng lúc, từng nơi còn diễn biến phức tạp; công tác chống buôn lậu hiệu quả chưa cao. Công tác cải cách hành chính còn hạn chế. Quy hoạch, đào tạo đội ngũ cán bộ kế thừa chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ chính trị…
Tháng 5-2010, Đảng bộ phường Châu Phú A tổ chức Đại hội lần thứ XIII nhiệm kỳ 2010 - 2015. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành 17 đồng chí, bầu Ban Thường vụ 5 đồng chí gồm: đồng chí Lê Bá Thiện được tái đắc cử Bí thư, đồng chí Huỳnh Văn Hiếu làm Phó Bí thư, đồng chí Trương Thanh Phong làm Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường, đồng chí Nguyễn Văn Thanh - Ủy viên Thường vụ, đồng chí Lê Thị Lệ Xuân - Ủy viên Thường vụ.
Đại hội đã đề ra mục tiêu tổng quát đến năm 2015 là: Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng có thế mạnh về dịch vụ - du lịch - thương mại. Giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường trong nội ô. Thực hiện lát gạch các vĩa hè trên các tuyến đường. Quản lý tốt trật tự xây dựng và quy hoạch đô thị. Tiếp tục nâng cao đời sống vật chất và văn hóa tinh thần cho nhân dân, thực hiện tốt các chính sách xã hội với xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm.
Các chỉ tiêu chủ yếu:
- Thu ngân sách 5 năm 23 tỷ đồng, hàng năm tăng từ 15% - 20%, trong đó thực hiện chi ngân sách đúng quy định và có tích lũy 30% để đầu tư phát triển.
- Xây dựng trụ sở hành chính phường.
- Giá trị sản xuất nông nghiệp 70 triệu đồng/ha.
- Phấn đấu giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn 1,09%.
- Giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng còn 13%.
- Giảm tỷ lệ hộ nghèo còn 0,5%.
- Tỷ lệ hộ sử dụng nước sạch 100%.
- Tỷ lệ hộ sử dụng điện 100%.
- Giải quyết việc làm cho 4.500 lao động.
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo 45%.
- Phấn đấu đạt chuẩn quốc gia 3 trường tiểu học và giữ vững đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở đúng độ tuổi.
- Giao quân đạt 100% chỉ tiêu, trong đó có từ 1- 2 đảng viên. Duy trì tỷ lệ dân quân đạt 1,12% dân số.
- Giữ vững, ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, không để xảy ra điểm nóng.
- Phát triển 120 đảng viên, 95% chi bộ trong sạch vững mạnh, không có chi bộ yếu kém, giữ vững danh hiệu “Đảng bộ trong sạch vững mạnh”.
- Biên niên lịch sử Đảng bộ phường Châu Phú A.
- Nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, giữ vững danh hiệu văn hóa ở 11 khóm.
- Tỷ lệ gia đình văn hóa 95%.
- Tỷ lệ đoàn viên, hội viên 59%.
Với những bài học kinh nghiệm qua quá trình đổi mới và phát triển, Đảng bộ phường lãnh đạo nhân dân phấn đấu hơn nữa để hoàn thành nhiệm vụ, xây dựng kinh tế - xã hội địa phương đạt và vượt những chỉ tiêu Đại hội lần thứ XIII đề ra, góp phần đưa Châu Phú A cùng toàn thị xã, toàn tỉnh tiến lên trong thời kỳ mới.
KẾT LUẬN
Với đặc thù là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa, tập trung bộ máy đầu não của địch, địa bàn Châu Phú A trực tiếp chịu nhiều áp bức bóc lột, những chính sách hà khắc của thực dân Pháp, sau này là đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai, Phát huy truyền thống yêu nước, từng lớp người địa phương Châu Phú A nối tiếp nhau tham gia cách mạng, chịu nhiều hy sinh, gian khổ bám đất không ngừng đấu tranh lập được những chiến công đáng tự hào, góp phần trong hai cuộc kháng chiến.
Sau khi đất nước hòa bình thống nhất, xã Châu Phú A và chi bộ xã được thành lập đã lãnh đạo nhân dân xây dựng cuộc sống mới với bao khó khăn, phức tạp: ra sức đẩy mạnh sản xuất, ổn định cuộc sống nhân dân, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội, thực hiện công tác cải tạo nông nghiệp, công thương nghiệp, vận động nhân dân tham gia các phong trào hành động cách mạng… Thực hiện những nhiệm vụ nặng nề trong những năm đầu xã mới ra đời, chi bộ đã thể hiện bản lĩnh cùng nhân dân từng bước vượt qua khó khăn xây dựng và phát triển trên các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực nông nghiệp. Các công trình thủy lợi được hoàn thành, phục vụ cho thâm canh, tăng vụ. Từ đó, năng suất, sản lượng lương thực không ngừng tăng lên, đời sống nhân dân được cải thiện và từng bước nâng lên. Song song, hoạt động thương nghiệp cũng được mở rộng với nhiều cửa hàng phục vụ tốt nhu cầu thiết yếu của nhân dân. Qua đó, chi bộ và chính quyền đã ổn định được lòng dân, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào chủ nghĩa xã hội.
Từ năm 1986, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ phường Châu Phú A xác định đúng thế mạnh địa phương về thương mại, dịch vụ, từng bước lãnh đạo nhân dân theo đúng hướng bằng những chủ trương, giải pháp cụ thể, đồng thời vận dụng, sáng tạo chủ trương, nghị quyết của cấp trên phù hợp với tình hình thực tế địa phương. Với tinh thần kiên quyết, dám nghĩ, dám làm, kế thừa những kinh nghiệm đã qua, Đảng bộ và chính quyền phường cùng nhân dân phấn đấu và đạt được những kết quả đáng phấn khởi trong sản xuất và đời sống.
Đến năm 1990, toàn bộ diện tích đất nông nghiệp của phường đã chuyển sang làm lúa 2 vụ, đặc biệt năm 1993, Đảng ủy phường mạnh dạn thử nghiệm thành công sản xuất vụ 3, là phường đi đầu trong thị xã Châu Đốc về sản xuất lúa vụ Thu Đông. Điều này không chỉ nâng cao sản lượng lúa của phường mà còn góp phần nâng cao đời sống người dân.
Kinh tế phát triển là điều kiện phát triển các mặt văn hóa, xã hội. Trong hơn 20 năm đổi mới, nhân dân trong phường đã đóng góp nhiều công sức và tiền của để xây dựng đê bao, hệ thống thủy lợi, giao thông nông thôn, các công trình an sinh xã hội… Công tác xóa đói, giảm nghèo đạt được kết quả khả quan. Từ đó, sức mạnh nội lực của phường được phát huy, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng lên. Đây là niềm tự hào, cổ vũ quân dân toàn phường cố gắng nhiều hơn để xây dựng và phát triển phường toàn diện, sánh kịp với đà phát triển chung của thị xã, của tỉnh và cả nước.
Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và chiến tranh biên giới Tây Nam, quân và dân Châu Phú A đã đóng góp nhiều công lao, xương máu, có 143 gia đình liệt sĩ, 149 liệt sĩ, 92 thương, bệnh binh, 5 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, nhiều người bị tù đày, ……….. thanh niên tham gia làm nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia.
Những đóng góp của Đảng bộ và nhân dân phường Châu Phú A trong chiến đấu, trong sản xuất đã được Đảng và Nhà nước từ trung ương đến tỉnh ghi nhận, khen tặng cho tập thể và cá nhân trong các thời kỳ cách mạng: 93 huy chương, 176 huân chương.
Trong 34 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng bộ phường Châu Phú A rút ra một số bài học kinh nghiệm quí báu:
Thứ nhất, Đảng bộ tích cực, chủ động trên cơ sở năm vững chủ trương, đường lối của Đảng và đặc điểm tình hình thực tế; dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm với tinh thần tự lực tự cường, đề ra những chủ trương sát hợp. Xác định thế mạnh là thương mại - dịch vụ - du lịch, Đảng bộ tập trung, đẩy mạnh khai thác tiềm năng, khuyến khích, phát triển các loại hình dịch vụ để phát triển khu vực chợ trung tâm đáp ứng nhu cầu của du khách và tiêu dùng của nhân dân. Song song, Đảng bộ đẩy chuyển dịch cơ cấu cây trồng, khuyến khích nông dân đầu tư khai thác tốt tiềm năng đất đai trong sản xuất, tạo ra sản lượng ngày càng tăng. Trên cơ sở đó, nền kinh tế - xã hội của phường được phát triển vững chắc.
Thứ hai, kế thừa và phát huy truyền thống đoàn kết thống nhất của dn tộc, nội bộ Đảng bộ và nhân dân đoàn kết thống nhất. Trên cơ sở đoàn kết, tin dân, dựa vào dân, trong mọi tình huống khó khăn, Đảng bộ đã tập hợp được sức mạnh của các tầng lớp nhân dân, đồng tâm hiệp lực, vượt qua mọi gian lao, thử thách thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ chính trị địa phương.
Thứ ba, thực hiện tốt công tác vận động quần chúng. Đảng bộ nhận thức sâu sắc sức mạnh của quần chúng trong sự nghiệp cách mạng, không ngừng chăm lo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Là trung tâm đô thị, phần lớn nhân dân là tiểu thương, tiểu chủ, mua gánh, bán bưng, vận dụng đường lối đúng đắn của Đảng, Đảng bộ đề ra những chủ trương, chính sách phù hợp với nguyện vọng của quần chúng. Những năm đầu thành lập xã với bao khó khăn, Đảng bộ đã làm tốt công tác vận động quần chúng, tạo được sự đồng tình, hưởng ứng của nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng. Từ chăm lo lợi ích thiết thân cho nhân dân, Đảng bộ đã tạo được niềm tin trong nhân dân, đã tuyên tuyền, vận động các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia các phong trào hành động cách mạng và giành thắng lợi.
Thứ tư, Đảng bộ quan tâm công tác giáo dục chính trị tư tưởng, thường xuyên rèn luyện đạo đức, phẩm chất cách mạng cho cán bộ, đảng viên; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kế thừa đủ năng lực và trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị địa phương.
Những thành tựu đạt được đã qua và bài học kinh nghiệm được đút kết là thực tiễn quý báu, giúp cho Đảng bộ và nhân dân phường Châu Phú A tiếp tục phấn đấu xây dựng quê hương ấm no, giàu đẹp.
PHỤ LỤC
I- DANH SÁCH BÀ MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG
STT |
Họ tên |
Địa chỉ |
01 |
Nguyễn Thị Soi |
Khóm 2 |
02 |
Huỳnh Thị Sang |
|
03 |
Trình Thị Tập (Trần Thị Huệ) |
|
04 |
Mai Thị Mầu |
Khóm 7 |
05 |
Lê Thị Sen |
Khóm 5 |
II- DANH SÁCH BÍ THƯ CHI BỘ, ĐẢNG BỘ PHƯỜNG CHÂU PHÚ A QUA CÁC THỜI KỲ
STT |
Họ tên |
Thời gian |
01 |
Vũ Hồng Việt |
2/1976 - 1978 |
02 |
Dương Thị Nhân |
1978 - 1982 |
03 |
Phạm Văn Công |
1982 - 1987 |
04 |
Phạm Tấn Tài |
1987 - 1990 |
05 |
Nguyễn Hoài Bắc |
1990 - 1996 |
06 |
Lâm Quốc Dũng |
1996 - 2002 |
07 |
Chung Văn Phú |
2002 - 2005 |
08 |
Lê Bá Thiện |
2005 - 2010 |
09 |
Phạm Công Đợi |
2010… |
[1] Hiện cư ngụ tại nhà số 406 đường Lê Lợi, thị xã Châu Đốc.
[2] Tương đương Ban Chấp hành Tỉnh ủy hiện nay.
[3] Thành P.C, hiện nay là Bộ Chỉ huy bộ đội Biên phòng tỉnh,
[4] Gồm các chị: Phạm Kim Ngân. Trương Thị Sáu, Lê Thị Kim Tâm, Phan Thị Mười, Lê Thị Đạt, Trần Thị Tý, Phạm Thị Song...
[5] Đồng chí Sĩ, Thân...
[6] Trong thời gian kháng chiến chống Pháp do không đủ tiền lẻ để trao đổi, mua bán nên có hình thức cắt đổi tờ giấy bạc Đông dương (IDEO) loại 1 đồng, 5 đồng, 10 đồng để sử dụng bằng nửa mệnh giá. Do chính quyền Diệm tuyên bố hủy bỏ loại bạc này nên quần chúng đòi đổi vì bị hủy thì mất nhiều tiền, không làm ăn mua bán đươc.
[7] Tài liệu lưu trữ Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy An Giang.
[8] Tài liệu lưu trữ tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy An Giang.
[9] Trong đó có anh Bảy Thạnh, công nhân hãng rượu Vĩnh Phong Long, chị Phạm Thị Năm, anh Sáu Châu (y tá), anh Ba Đặng… Số này bị tù ở Châu Đốc, Phú Lợi, Côn Đảo. Đến năm 1959, chị Phạm Thị Năm được thả và sau đó lần lượt đến các người khác.
[10] Tên Bé Dũng là bảo vệ Huyện ủy Châu Phú, ra đầu hàng địch năm 1961 làm chỉ điểm, đánh phá cơ sở cách mạng rất ác liệt. Lần đầu đồng chí Hoàng bắn hắn tại nhà chủ xe Công Tạo ở kênh Ông Cò nhưng không chết. Địch đưa hắn vào bệnh viện Châu Đốc điều trị. Đồng chí Hoàng tiếp tục nhận nhiệm vụ bắn lần 2 ngay trên giường bệnh nhưng nó vẫn chưa chết, được địch chuyển đi Long Xuyên. Ở quân y Long Xuyên ta vận động cơ sở binh vận tiêm thuốc giết hắn, trừ được mối họa lớn cho dân, cho cách mạng.
[11] Do bà Năm Thà (mẹ đồng chí Phương Quang) chỉ huy cùng 2 người con, 1 người cháu (theo lời kể của cô chín Oanh).
[12] Chi bộ 4 tốt gồm: tấn công địch và xây dựng lực lượng tốt; liên hệ với quần chúng tốt; xây dựng nghị quyết và thực hiện nghị quyết tốt; lãnh đạo và xây dựng nội bộ tốt.